CHUYÊN ĐỀ TÌM HIỂU MỘT SỐ ĐIỀU
VỀ ĐẠO CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM
Tác
giả: BÌNH MINH (Bùi Văn Thạch)
CHƯƠNG I
KIẾN GIẢI MỘT SỐ ĐIỀU VỀ KI-TÔ GIÁO
Ki-tô giáo lấy
bộ kinh thánh Cựu ước và Tân ước làm bộ sách thánh của mình. Một điều đắc biệt
mà hôm nay ai cũng biết ấy là Kinh thánh Ki-tô giáo chính là bộ sách bán chạy
nhất thế giới mọi thời đại. Có điều đó một phần cũng do người theo đạo Chúa Trời
đứng hàng thứ 1 thế giới về số đông nhưng cũng một điều nữa là những vấn đề mà
cuốn sách ấy đưa ra có sức hấp dẫn riêng của nó mà không phải chỉ những tín hữu
mới mua mà rất nhiều người chẳng theo tín ngưỡng Ki-tô vẫn mua để tìm hiểu, luận
giải nhiều điều của riêng họ.
Nhiều người
nói rằng “Cựu ước” nên đổi tên thành Giao ước thứ nhất, còn “Tân ước” nên đổi
thành Giao ước thứ hai, tôi không phủ nhậ những suy luận logic của họ bởi điều
đó cũng có phần đúng. Thực chất Cựu ước hiểu theo nguyên nghĩa của nó tức là
Giao ước cũ (Cựu: cũ; Ước: Giao ước, hẹn ước), và Tân ước tức là Giao ước mới
(Tân: mới; Ước: Giao ước, hẹn ước). Đạo Công giáo lấy cả Cựu ước và Tân ước làm
hai bộ sách thánh và gọi là Kinh thánh trọn bộ. Theo một góc nhìn nào đó thì rõ
ràng nếu có giao ước mới thì sẽ thay thế giao ước cũ là lẽ đương nhiên, tuy
nhiên vấn đề ở đây chính là việc phát sinh giao ước mới lại dựa trên nền tảng
giao ước cũ chính vì thế mà dù cho có gọi là giao ước thứ nhất, thứ hai hay là
giao ước cũ mới thì chúng ta đều phải hiểu rằng hai cuốn giao ước lại thống nhất
trong một vấn đề và phục vụ một vấn đề ấy chính là loan truyền về đấng cứu thế.
Có thể nói nếu
chúng ta chú tâm một chút chúng ta sẽ hiểu rằng Cựu ước là cuốn sách mà ở đó đức
Giê-hô-va hay là Thiên chúa của Áp-ra-ham, của I-sa-ác… đã sáng tạo nên thế giới
và loài người rồi ban cho họ những đặc ân được sống hạnh phúc ấm no trong vườn
địa đàng. Nhưng con người vốn dĩ mang nhục thể thế gian chịu sự cám dỗ của con
rắn xảo quyệt và Eva – Adam đã ăn trái cây đức chúa cấm để rồi mang vào mình tội
lỗi gọi là tội tổ tong truyền cho muôn đời con cháu. Đó chính là nguồn cơn ban
đầu để có một giao ước mang tính lịch sử chính là Đức chúa sẽ sai một đấng cứu
tinh đến để cứu rỗi loài người khỏi tội lỗi. Xuyên suốt kinh thánh cựu ước
chúng ta sẽ thấy đó là điều quan trọng nhất, còn các giao ước khác với các tổ
phụ dân Ít-ra-en thì chỉ mang tính thời đại và mang tính giáo huấn cho những
con dân Ít-ra-en mà thôi. Xin ví dụ như trong cựu ước có quy định rõ nếu con
người phạm tỗi có thể giết một con Chiên, con Bê… để làm lễ tế và được tha tội.
Nhưng tội tổ truyền thì vẫn chẳng được tha. Vậy nên phải cần đến một hy lễ đặc
biệt để có thể được thiên chúa tha thứ trọng tội này? Hy lễ đó chỉ có thể được
thiết lập khi Giê-Su( còn gọi là đấng Mết-si-a hay là đức Ki-tô) – chính là con
chúa Trời là Ngôi lời nhập thể là Ngôi hai thiên chúa xuống thế và lập ra.
Trong cuốn Cựu
ước có rất nhiều sách như Sáng thế, Xuất hành, Lê-vi, Đệ nhị luật, Các vua…mô tả
lịch sử của loài người từ khi thiên chúa sáng tạo thế giới muôn vật và loài người
đến trước thời Giê-su sinh ra, chủ yếu viết về lịch sử phát triển vận động của
người It-ra-en. Khi tìm nói về cuốn Cựu ước tôi có thể nói rằng đây thực chất
là một cuốn sách mang tính sử thi, thần thoại (mà nó vốn dĩ là thần thoại bởi
nó là cuốn sách của đạo Do thái giáo) đã diễn tả một cách hào hùng và hung
tráng những bước thăng trầm có nước mắt bi ai, có chiến thắng lẫy lừng của một
dân tộc “được chúa chọn”.
Tuy nhiên
chính trong cuốn sách này đã truyền tải nhiều nội dung mà cho đến ngày nay nhiều
người không thể hiểu và cũng là nguyên lý để họ nói những điều trái ngược tinh
thần ki-tô giáo thậm chí là xỉ nhục đạo công giáo. Ấy chính là: Tại sao đã là
Thiên chúa mà lại phải sợ con người? Thiên chúa mà lại đi ghen ghét ganh tỵ với
loài người rồi chia rẽ loài người ra nhiều thứ ngôn ngữ là sao? Tại sao Adam-
Eva phạm tội ăn trái cấm mà lại bắt cả loài người về sau mang tội ( rõ ràng ai
làm người ấy chịu chứ sao lại bawtst muôn đời sau phải gánh chịu)? ….
Đọc tiếp>>>
Xin mời các bạn hãy đọc
qua một đoạn trong chương 3 của sáng thế kí (St 3,1.4-7.11-15.21-24):
3,3,1
Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên
Chúa đã làm ra…
3,4
Rắn nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu!
3,5
Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và
ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác." 3,6 Người
đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho
mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó
với mình; ông cũng ăn.
3,7
Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm
khố che thân. …
3,11
Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi: "Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có
phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?" 3,12 Con
người thưa: "Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên
con ăn."
3,13…
Người đàn bà thưa: "Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn."
3,14
Đức Chúa là Thiên Chúa phán với con rắn:…
3,15
Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người
ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó."
……
3,21
Đức chúa là Thiên Chúa làm cho con người và vợ con người những chiếc
áo bằng da và mặc cho họ.22 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa nói: "Này con người đã trở thành như một kẻ
trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả
trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi."23 ĐỨC CHÚA là
Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đen để cày cấy đất đai, từ đó con người
đã được lấy ra.24 Người trục xuất con người, và ở phía đông vườn
Ê-đen, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến
cây trường sinh.
Còn đây là đoạn nói về thiên chúa chia rẽ
ngôn ngữ (St 11,1-8):
1 Thuở ấy, mọi người đều nói một
thứ tiếng và dùng những từ như nhau.2 Trong khi di chuyển ở phía
đông, họ tìm thấy một đồng bằng ở đất Sin-a và định cư tại đó.3 Họ bảo
nhau: "Nào! Ta đúc gạch và lấy lửa mà nung! " Họ dùng gạch thay vì đá
và lấy nhựa đen làm hồ.4 Họ nói: "Nào! Ta hãy xây cho mình một
thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh ta lẫy lừng,
để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất."
5 ĐỨC CHÚA xuống xem thành và tháp
con cái loài người đang xây.6 ĐỨC CHÚA phán: "Đây, tất cả chúng
nó họp thành một dân, nói một thứ tiếng. Chúng mới khởi công mà đã như thế thì
từ nay, chẳng có gì chúng định làm mà không làm được.7 Nào! Ta xuống
và làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không ai hiểu ai nữa."8
Thế là ĐỨC CHÚA phân tán họ từ chỗ đó ra khắp nơi trên mặt đất, và họ phải thôi
không xây thành phố nữa.9 Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là
Ba-ben, vì tại đó, ĐỨC CHÚA đã làm xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất,
và cũng từ chỗ đó, ĐỨC CHÚA đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất.
(….)
Và còn nhiều
điều khác nữa mà đâu đó rất nhiều người vin cớ vào đó để phản biện lại chân lý
công giáo mà không phải ai cũng có thể hiểu kín kẽ vấn đề. Lần đầu tiên khi tôi
tìm hiểu kinh thánh cựu ước tôi cũng có cảm giác sao cựu ước nhiều đoạn rất nghịch
lý đến vậy. Rõ ràng đó là một vấn đề mà đa phần nhiều giáo dân công giáo chúng
ta chẳng thể giải thích được và thậm chí cũng chẳng bao giờ đọc đến hoặc biết
chi tiết về điều đó mà chỉ hiểu qua loa. Tại hội thảo những người công giáo tại
Zhongli- Taoyan tôi đã hỏi rất nhiều người hầu như họ chỉ nói đại khái chứ khi
mở sách thánh ra để đọc họ đều thể hiện sự ngạc nhiên vì những gì họ đọc được.
Vấn đề ở đây
chúng ta cần hiểu chính là việc Thiên chúa sáng tạo con người vì cớ gì? Có hiểu
được điều này chúng ta mới lí giải được các vấn đề khác.
Thật vậy
thiên Chúa tuyệt đối không có lợi gì mà phải tạo dựng con người và mong muốn
cho con người sống tốt lành để được hạnh phúc .Ngài tạo dựng và mong muốn
như vậy chỉ vì lợi ích của chính con người và vì muốn chia sẻ đời sống
và hạnh phúc vĩnh cửu của Ngài cho con cái loài người mà thôi.Chúng ta phải tin
chắc như vậy để không bao giờ lầm tưởng rằng Thiên Chúa được lợi lộc
gì mà phải tạo dựng cũng như mong muốn cho con người sống theo đường lối
của Người. Nhưng vì Thiên Chúa chỉ ban riêng cho con người hai quà tăng quí giá
là lý trí và ý muốn tự do ( Free will) nên vấn đề thưởng phạt chỉ đặt ra cho
con người mà thôi.Nghĩa là Thiên Chúa không phán đoán một tạo vật nào khác mà
chỉ phán đoán riêng con người , vì con người có trí hiểu để nhận biết sự lành,
sự dữ, sự xấu, và nhất là có tự do để chọn lựa giữa sự lành, sự thiện hảo
hay sự dữ, điều gian ác khi sống trên trần thế này. Thiên Chúa hoàn toàn tôn trọng
tự do của con người. Nghĩa là Ngài không áp đặt và bắt buộc con người phải
sống theo ý Ngài . Vì thế, mới có vấn đề thưởng phạt
con người về những việc mình làm khi sống trên đời này ... Và đó
cũng là lý do tại sao Giê-su đã đến trong trần gian để đền tội cho nhân loại
qua khổ hình thập giá, vì Thiên Chúa còn yêu thương con người, mặc dù con người
đã phạm tội , tự tách mình ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Tuy nhiên , đôi
khi Thiên Chúa đã bất đắc dĩ phải sửa phạt con cái loài
người như ta thấy trong suốt lịch sử sáng tạo và cứu độ.
Còn về di
truyền tội tổ tông thì có thể hiểu Di truyền là tiếp nhận từ tổ tiên và không
cưỡng lại được, còn tội là hành vi cá nhân, có thể chống cưỡng. Và như thế, nếu
là di truyền thì không có tội, và nếu là tội thì không do di truyền.Thực ra,
chúng ta chỉ có thể hiểu được tội di truyền trong sự liên đới tập thể. Một khi
sợi dây liên đới bị nhiễm trùng thì không ai thoát khỏi vết viêm nhiễm ấy. Dù
trẻ em vô tội nhưng cũng bị ràng buộc với người lớn, và tội mang tính tập thể
là như vậy.
Và chúng ta
cũng có thể hiểu rằng tội tổ tông ở đây giống như loại gien di truyền mà ngày
nay khoa học đã chứng minh.
Sự
kiện trừng phạt về ngôn ngữ cũng vậy, khởi nguyên con người cũng có chung một
ngôn ngữ nhưng chính con người đã đi chệch hướng Thiên chúa, đoàn kết lại làm
những công trình nhưng lại để tôn vinh chính mình chứ không phải là tôn vinh
thiên chúa. Mà với đức chúa chí tôn thì con người phải biết kính nể sợ phục tôn
vinh người chứ không phải là tôn vinh bản thân mình mà bỏ qua đấng sáng tạo. Sự
trừng phạt ở đây mang tính chia cắt tách ly nhằm điều hướng cho loài người biết
đâu là phận sự của bản thân và đâu là phận sự với thiên chúa và cũng là nhằm
tránh cho con người những tội lỗi lớn hơn khi họ càng ngày càng trở nên ngộ nhận
về bản thân mình. Và sự chia tách như vậy đã làm diệt trừ những lỗi phạm sẽ xảy
ra cho con người từ trong trứng nước bởi thiên chúa vốn thưởng phạt phân minh.
Chúng
ta có thể thấy với những người mà Thiên Chúa đã tạo dựng trong
thời Cựu Ước, Ngài đã đánh phạt họ vì những tội lớn lao họ đã phạm , sự dữ
họ đã làm mà không biết ăn năn sám hối để xin tha thứ, nên trước hết
Thiên Chúa đã hủy diệt toàn bộ loài người trên mặt đất với hình phạt “ Đại
Hồng Thủy” trừ gia đình ông Nô-E và những sinh vật ông đem lên tầu trước khi
mưa tuôn đổ xuống, cuốn đi mọi loài mọi vật bên ngoài con tầu của
ông vào lòng đại dương. ( x St 6 & 7)
Tiếp
theo là hình phạt Thiên Chúa giáng xuống hai thành Xô-đôm và Gô-mô-ra, vì ông
Ap-ra-ham đã không tìm được một người lành nào trong các thành đó để xin Thiên
Chúa nguôn cơn thinh nộ tha trừng phạt dân tội lỗi sống trong hai thành
này..Cho nên, cuối cùngThiên Chúa đã cho lửa và diêm sinh từ
trời xuống thiêu rụi tất cà người và mọi sinh vật sống trong hai thành
đó, trừ gia đình ông Lót, cháu ông Ap-ra ham, đã ra khỏi
thành . Riêng vợ ông Lot đã biến thành cột muối vì đã “ ngoái cổ lại
đằng sau” ( cf St. 19).
Nhưng
nếu con người làm sự dữ, sự tội mà biết ăn năn thống hối , xin Chúa
tha thứ, thì Người lại thứ tha như trường hợp dân thành Ni-ni-vê đã bị Thiên
Chúa toan hủy diệt vì tội lỗi của họ. ,Nhưng vì họ đã nghe lời Chúa cảnh
cáo họ qua ngôn sứ Giô-na, nên Chúa đã tha không trừng phạt.
Như
thế đủ cho thấy là Thiên Chúa nhân từ và đầy lòng thương xót . Nhưng nếu con
người ngoan cố, cứ bỏ ngoài tai tiếng nói của lương tâm phản ảnh tiếng nói của
Thiên Chúa trong tâm hồn của mỗi người để ngày một lún sâu
vào con đường tội lỗi, gian ác , ô uế, thì chắc chắn Chũa sẽ không thể
dung tha được. Và hình phạt là hậu quả tất nhiên của tội lỗi mà có lí giải cách
nào chúng ta cũng phải thừa nhận chỉ khi con người đi giáo huấn của chúa thì mới
bị trừng phạt. Còn đôi khi sự trừng phạt của Thiên chúa sẽ vượt xa tầm nghĩ của
loài người.
Có
thể nói thời Cựu ước con người phải sống theo lề luật tôn giáo, mọi việc đều
theo sự “phải làm” và “cấm không được làm” còn tới thời Tân ước loài người đến với Đức Chúa Trời
một cách trực tiếp, bởi trái tim mỗi tín hữu là một đền thờ, mình tuơng giao với
Chúa qua Đức Thánh Linh ngự trị trong lòng.., tín hữu sống bằng ân điển và niềm
tin: Ân điển là ơn của Chúa: sức mạnh tình thương và sự khôn ngoan Chúa
ban, Niềm tin là tin chắc những điều mình sắp làm sẽ đẹp lòng Chúa, vẻ vang
danh Chúa và có Chúa trợ giúp.
Thời
Cựu ước thì hầu việc Chúa trong sự sợ hãi, sau này thời Tân Ước thì hầu việc
Chúa trong tấm lòng yêu mến và biết ơn.
Vậy Tân ước
hay bản giao ước mới do Giê-su lập ra có những điểm gì?
Tân Ước cho
chúng ta biết cuộc đời và công việc của Chúa Giê-su trên trần gian cách đây
2000 năm, về sự hi sinh và sự sống lại của Chúa, về sự thiết lập và tăng trưởng
của Hội thánh, bắt đầu từ các môn đệ của Chúa sau lan đến các vùng và nước ngoại
bang, các dân tộc, ngôn ngữ. Đạo Chúa tách được tách ra khỏi Do-thái giáo. Thay
thế một hệ thống tôn giáo và lề luật phức tạp thời Cựu ước, Giê-su chỉ đưa hai
điều răn như sau: “Hãy hết tấm lòng, hết
linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực mà yêu mến Đức Chúa Trời người. Và hãy yêu
thương người đồng loại như chính bản thân mình.”
Nói tóm lại
đạo Chúa được xây dựng trên hai điểm: Kính
yêu Chúa, mến thương người.
Một điều đặc
biệt là trong Cựu ước có nhiều lời tiên tri về lịch sử dân Israel, các dân
tộc phụ cận và thế giới. Sự ứng nghiệm của các tiên tri được lịch sử kiểm chứng
ngay trước Công Nguyên. Tiên tri được ghi chép lại và được ứng nghiệm khiến
chúng ta có thể tin cậy Kinh Thánh. Và còn vô cùng đặc biệt là trong Cựu ước có
khoảng 300 tiên tri về một Đấng sẽ đến để cứu nhân loại. Những tiên tri ấy chỉ
được ứng nghiệm trong Tân ước: Chúa Giê-su xuống trần gian, giảng dạy về Đức
Chúa Trời với ngôn ngữ mà loài người hiểu được, sống cuộc đời vô tội làm gương
cho chúng ta noi theo, làm phép lạ chứng tỏ Chúa là Thiên Thần trong thân xác
người phàm, mà phép lạ lớn nhất là sống dậy từ cái chết. Sau đây là một ví dụ về
tiên tri. Trong Cựu Ước sách Êsai chương 7 câu 14, viết khoảng 700 năm trước
công nguyên: “Này một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ con trai và đặt tên
là Em-ma-nu-en” . Trong Tân Ước: Sau đây là sự giáng sinh của Chúa Cứu thế
Giê-su: “Cô-Ma-ri đã đính hôn với Giô-sép, nhưng khi còn là trinh nữ, nàng
đã chịu thai do Thánh Linh...” Sách Ma-thi-ơ chương 1 câu 18. Danh
Em-ma-nu-en có nghĩa là “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta, ở trong vòng loài người”.
Đây cũng là một danh hiệu của Chúa Giê-su sau này.
Có người nói Giê-su do hiểu biết được các
tiên tri nên đã điều khiển cuộc sống mình đúng như một số lời tiên tri, Ví dụ
trong Tân Ước, sách Lu-ca chương 4 câu 16 đến 21: “Đức Chúa Jêsus đến thành Na-xa-rét,
là nơi dưỡng dục Ngài. Theo thói quen, nhằm ngày Sa-bát, Ngài vào nhà hội, đứng
dậy và đọc. Có người trao sách tiên tri Ê-sai cho Ngài, Ngài dở ra, gặp chỗ có
chép rằng: Thần của Chúa ngự trên ta: Vì Ngài đã xức dầu cho ta đặng truyền
Tin Lành cho kẻ nghèo; Ngài đã sai ta để rao cho kẻ bị cầm được tha, Kẻ mù được
sáng, Kẻ bị hà hiếp được tự do; Và để đồn ra năm lành của Chúa. Đoạn, Ngài xếp
sách, trả lại cho kẻ giúp việc, rồi ngồi xuống; mọi người trong nhà hội đều
chăm chỉ ngó Ngài. Ngài bèn phán rằng: Hôm nay đã được ứng nghiệm lời Kinh
Thánh mà các ngươi mới vừa nghe đó. Sau đó Chúa đi giảng đạo và chữa bệnh,
làm phép lạ...”. Ngày nay chúng ta có thể chứng kiến nhiều điều lạ lung có thể
gọi là phép lạ được làm nên bởi người phàm tục có học, các ảo thuật gia,… nhưng
ai có thể dự định cho mình sinh ra thời điểm nào, địa điểm nào, mẹ
là ai đúng như lời tiên tri trong Cựu ước - Điều này đã được kiểm chứng trong kỳ
kiểm kê dân số của hoàng đế La Mã Augustus. Rồi về cái chết. Người ta có thể
lên kế hoạch tự vẫn nhưng không ai có thể lên kế hoạch cho kẻ phản bội và kẻ
sát nhân mình. Chuyện Giu-đa bán Chúa lấy 30 đồng bạc được tiên tri, chuyện tổng
trấn Pi-lát đóng Chúa trên cây gỗ được tiên tri, chuyện những tên lính chia
nhau cái áo choàng tầm thường của Chúa, bằng cách bắt thăm thay vì xé nhỏ từng
mảng cũng được tiên tri. Chuyện Chúa không bị họ đập gẫy xương ống chân như những
tên tử tội bị đóng đinh bên cạnh cũng được tiên tri v.v... Và cuối cùng có ai
lên kế hoạch bước ra khỏi mồ mả sau khi bị chôn ba ngày ... Không những các môn
đồ được chứng kiến chuyện ấy, nhưng có trên 500 người được chứng kiến trong
vòng bốn mươi ngày. Điều kỳ diệu này cũng được tiên tri trong Cựu Ứớc và ứng
nghiệm trong Tân Ước trên Chúa Giê-su. Điều ấy chứng minh Giê-su không phải là
người phàm, chỉ là một thầy giáo... mà là một Đấng từ Trời và Tân Ước, mặc dầu
do các môn đồ của Chúa ghi lại, hoàn toàn được Đức Chúa Trời chấp nhận.
Tuy nhiên chúng ta cần hiểu việc Giê-su đến
thế gian này lập ra giao ước mới. Vậy đó là những giao ước gi? Và Giê-su cứu độ
nhưng cứu độ cái gì?
Câu hỏi tưởng như đơn giản nhưng thực chất
có rất nhiều người công giáo lại chẳng thể nói cho rõ ràng tường tận chỉ biết
Chúa Giê-su đến cứu độ loài người. Nhưng Việc ông Giê-su đến rồi rao giảng rồi
chết thì có liên quan gì đến cứu độ người khác đâu. Ông ấy chết đi, thậm chí là
sống lại thì là cho ông ấy chứ cho gì nhân loại và xóa tội tổ tong truyền?
Việc Giê-su giáng sinh như lời tiên báo rồi
chấp nhận sống cuộc sống khó nghèo nơi trần thế, chịu mọi khổ cực cực hình
trong cuộc sống để cho loài người biết rằng thiên chúa thấu hiểu mọi nỗi đau
cùng cực của con người thậm chí là cái chết – vốn là cái đáng sợ nhất với loài
người mọi thời đại thì thiên chúa cũng trải qua cùng loài người.
Giê-su chịu phép rửa trong nước từ sông
Gio-đan do Gio-an làm phép để cho thấy người cũng hoàn thiện công việc của người
tín hữu. Chúng ta thấy có sự khác nhau giữa
phép rửa của Gioan và của Giêsu thiết lập sau này. Phép rửa của Gioan chỉ là dấu
hiệu của sự ăn năn sám hối. Người Do thái đến cho Gioan làm phép rửa là để được
ăn năn các tội mình để được ơn tha thứ. Còn Giêsu Kitô, con người vô tội, không thể lãnh nhận Phép rửa với hướng đó. Vậy
Ngài đến xin rửa không phải là cho mình, mà là cho người khác, vì người khác.
Ngài chịu phép rửa là nói lên, từ nay, Ngài chung số phận với người tội lỗi và
đó là tất cả ý nghĩa đời Ngài và cuộc đời này chỉ hoàn tất với phép rửa cuối
cùng, của sự chết (Mc 10,38 ; Lc 12,50) vì chết là cùng chung số phận của con
người tội lỗi, con người bị sa ngã, và là số phận bi đát nhất. Phép rửa của
Chúa Giêsu là phép rửa “tái sinh”. Nó ban cho mọi người một
đời sống toàn vẹn. Giải thích về đời sống mới này, thánh Phaolô đã viết cho các
Kitô hữu vừa mới được rửa tội như sau :”Khi
được rửa tội là anh em được mai táng với Đức Kitô, và trong phép rửa tội, anh
em cũng được sống lại với Đức Kitô. Anh em đã bị chết về mặt tâm linh nhưng giờ
đây Thiên Chúa đã mang anh em đến nguồn sống cùng với Đức Kitô”(Cl 2,12-13).
Như vậy có thể nói phép rửa hay bí tích rửa
tội ngày nay chính là dấu chỉ do chính Giê-su kiện toàn theo giao ước mới là rửa
nước và chúa thánh thần và làm cho con người nên sạch mọi tội lỗi kể cả tội tổ
tông truyền. Khi chúng ta lãnh nhận
phép rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm sự chết và sống
lại của Ngài. Chúng ta vào đời khi được sinh ra và vào đạo của Thiên Chúa khi
được rửa tội. Trong nghi thức rửa tội chúng ta được dìm trong nước hoặc đổ nước
trên đầu để chỉ việc tẩy rửa khỏi tội tổ tông và mọi tội riêng, được tái sinh
làm con cái của Chúa và gia nhập vào Giáo hội. Vì thế, Giáo hội coi bí tích rửa
tội như một cuộc tái sinh, người được rửa tội trở thành một con người mới. Họ
thấy đâu là ơn gọi và định mệnh của con người, đâu là ý nghĩa của cuộc đời.
Khi Giê-su
ra giảng ngài đã thiết lập nên một tư duy mới, một tinh thần thờ phượng mới.
Ngài cho con người ngày hôm nay những chân lý sống đạo và thực hành đạo một
cách sinh động nhất. Không còn quá nhiều sự rườm rà, phiền hà như thời cựu ước
mà đã được kiện toàn trong một sự hoàn thiện giáo lý và chân lý Ki-Tô như chính
lời người phán trong bài giảng trên núi với các môn đệ “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ
Luật Mô-sê hoặc lời các Ngôn sứ. Thầy đến khôn g phải để bãi bỏ nhưng là
để kiện toàn” (Mt 5, 17). Mến chúa – Yêu người đã thực sự trở thành kim chỉ
nam cho kinh thánh Tân ước và cho Giáo hội công giáo hôm nay. Tuy nhiên đỉnh cao của giao ước mới cứu độ
loài người ấy chính là sự chết của một con chiên vâng lời chúa cha đến chết và
chết trên thập giá.
Nhiều người hiểu
đơn giản chúa chết để cứu độ loài người. Nhưng vì sao Giê-su bị người ta bắt và
giết?
Giêsu đã bị
nhóm Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê cùng với các Tư tế và kinh sư liên kết với nhau để hại Ngài (x. Mc 3, 6).
Dưới con mắt của họ, Giêsu là người có tội vì:
- Đã chống lại
luật Mô-sê (x. Mc 3, 1-6)
- Coi thường đền thờ Giê-ru-sa-lem, trung tâm đời sống
phụng tự của dân Do Thái (x. Ga 2, 19).
- Phạm thượng dám cả gan coi mình ngang hàng với
Thiên Chúa, (x. Ga 8, 59).
- Giê-su xưng mình là vua dân Do thái
Đó là những trọng tội thuộc lãnh vực tôn giáo, mà theo Luật Mô-sê, phải bị xử tử (x. Ga 8, 59; Lv 24, 16).
Thực
ra, với ba lý do đầu người Do Thái có thể bỏ qua tội phạm thượng vì đã có lần,
người ta cho Ngài là kẻ quẫn trí, nói nhảm (Mc 3,20-21; Ga 10,19-21). Philatô
đã có thể tha bổng Đức Giêsu vì ông biết rõ Giêsu vô tội, chỉ vì ghen tỵ mà người
Do Thái đã nộp Ngài (Mc 15,8-11); song Philatô lo sợ quần chúng nổi loạn nên đã
ra lệnh đóng đinh Đức Giêsu trên thập giá (Mt 27,19-26).
Nhưng
lịch sử lúc đó là dân Do thái đang sống trong một đất nước bị đô hộ, người Do
Thái tuân phục chính quyền Rôma một cách miễn cưỡng, vì thế họ dành sự kính trọng
cho giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Đó là lý do tại sao quần chúng Do Thái trước
kia có cảm tình với Chúa Giêsu (Mt 21,1-11), bây giờ lại ngả theo giới thượng tế
đòi đóng đinh Đức Giêsu (Mt 27,20-25). Và còn một điều nữa là nếu không đóng
đinh đức Giê-su thì người Rô-ma sẽ đến và họ sẽ hủy diệt cả thành này.
Đức Giêsu xuất hiện như một bậc thầy thông thạo về
đạo lý, lại làm được những việc lạ lùng (Mt 6,17-19), nên đã thu hút được quần
chúng tin theo (Mt 7,16-17). Giới lãnh đạo Do Thái giáo ghen tỵ và tìm cách loại
trừ (Ga 11,45-57).
Tuy
nhiên, chúng ta không thể quy trách nhiệm sát hại Đức Giêsu cho dân Do Thái vì
chính Chúa đã đến và sẵn sang chết vì tội lỗi của mọi người chúng ta (1Cr
15,3), và đó là ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Ý định đó nằm trong một chuỗi
logic nhằm chứng minh một mầu nhiệm cao siêu mà chỉ có thiên chúa mới làm được
đó là chiến thắng cái chết còn gọi là sự phục sinh đem lại một niềm tin và hy vọng
cho nhân loại bởi những luận cứ sau đây:
1.
Tin Mừng Phục Sinh khởi đi từ con đường thập giá :
Tội
lỗi đã vô hiệu hoá mọi khả năng sống đời đời và sống hạnh phúc của con người bằng
cái chết vĩnh viễn. Chúa Giêsu đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, chiến thắng của
Ngài không còn là của riêng Ngài nữa, mà là gia tài của toàn thể nhân loại, của
những ai là đồng loại với Ngài. Không thể có sự sống lại mà trước đó không đi
vào cái chết. Cái chết vẫn cứ đến với mỗi người, song con người sẽ không bị
quăng vào cõi tiêu diệt đời đời, nhưng như hạt lúa gieo vào lòng đất phải thối
nát đi mới đâm mầm nảy mộng, mới hy vọng có ngày trổ sinh nhiều bông hạt.
2.
Chúa Phục Sinh là một biến cố lịch sử và siêu việt :
Đức
Giêsu sống lại từ cõi chết là một sự kiện có thực, vừa mang tính lịch sử, vừa
mang tính siêu việt dựa vào ngôi mộ trống và những lần hiện ra.
Ngôi
mộ trống tự nó không chứng minh được việc Chúa Phục Sinh, vì có thể xảy ra trường
hợp đánh cắp xác đi nơi khác; lúc đầu chính các môn đệ cũng nghĩ như vậy (Ga
20,1-2). Song căn cứ vào những lần Chúa Giêsu hiện ra (Ga 20,11-29), các môn đệ
đã nhận ra Thầy của mình, người mà họ đã từng gặp gỡ, ăn uống, đi lại bây giờ
đã sống lại thực. Rất nhiều người không tin chuyện Chúa Phục Sinh, riêng các
môn đệ thì xác tín và rao giảng đức tin Phục Sinh bất chấp mọi nguy hiểm và cả
cái chết. Rõ ràng đã có một sự thay đổi lớn lao nơi các tông đồ là những chứng
nhân trực tiếp, và vẫn còn tác động trên các tín hữu mọi thời mọi nơi (1Cr
15,1-11).
3.
Chúa Phục Sinh mang lại Tin Mừng cho nhân loại
Nếu
không có sự sống lại thì cuộc đời này thật phi lý, vì cái chết sẽ cào bằng tất
cả, kẻ gian ác cũng như người lành thánh. Nếu Đức Giêsu không sống lại từ cõi
chết thì dù cái chết ấy có mang một ý nghĩa cao đẹp mấy đi nữa, cũng không có
giá trị cứu độ con người (1Cr 15,14). Đã là người thì ai cũng phải chết, nhưng
đã có một người trong số con cái loài người, sống lại từ cõi chết; điều đó lại
chẳng làm cho chúng ta nuôi hy vọng hay sao ? Vì thế, việc Chúa Giêsu Phục Sinh
từ cõi chết là một đại Tin Mừng mang hy vọng rực rỡ nhất (1Cr 15,16-24).
4.
Tin Mừng Phục Sinh sẽ hoàn tất vào ngày cánh chung :
Chúa
Kitô Phục Sinh sẽ chỉ trở lại trần gian này một lần nữa vào ngày tận cùng của
thế giới này ‘để phán xét kẻ sống và kẻ chết’ (Quang Lâm). Thực ra Thiên Chúa
muốn cho hết mọi người được hưởng hạnh phúc đời đời, và không muốn nghiêm phạt
một ai. Ngài chỉ cản ngăn tội lỗi mà con người mang theo. Vì thế cần có sự
thanh luyện trước khi về với Thiên Chúa là Đấng chí thánh, và ta thường gọi là
‘luyện tội’. Những ai không sống trong ân phúc của Chúa và tới giờ phút cuối
cùng vẫn cố tình từ chối tình thương vô bờ của Chúa thì không thể tồn tại trong
Chúa; và người ta gọi họ là những kẻ bị án phạt hoả ngục đời đời. Còn những ai
được thanh luyện sẽ trở nên giống Thiên Chúa, chia sẻ sự sống và hạnh phúc của
Thiên Chúa, và chúng ta quen gọi là Thiên Đàng.
Thiên
Đàng không phải là một nơi chốn mà chỉ là một tình trạng được hạnh phúc ở trong
Thiên Chúa (thiên đàng). Chỉ có Thiên Chúa là tồn tại mãi mãi, nên ngoài Thiên
Chúa thì chẳng còn gì nữa, mà chỉ là hư mất đời đời (hoả ngục).
Theo
niềm tin của người Công Giáo, chết là linh hồn lìa khỏi xác. Hồn bất tử vì do
Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng và phú ban cho con người khi đầu thai, song trước
khi hồn trở về với Chúa phải được thanh luyện. Xác tan rã dưới lòng đất, chờ
ngày tận thế sống lại kết hợp với hồn để có thể hưởng hạnh phúc đời đời.
Từ
những Luận cứ như trên chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của việc cứu độ mà
chính đức Giê-su đã đem đến thế gian. Người đem đến thế gian một hình tượng sống
động nhất về hình ảnh thiên chúa. Đem đến thế gian những giáo huấn được kiện
toàn, thanh lọc những giáo huấn để cho cong người tập trung trong công việc phụng
sự. Người cũng lập các phép thánh để qua đó thể hiện giao ước của thiên chúa với
con người đó là phép rửa tội, bí tích giải tội và bí tích thánh thể…
Sự
việc bàn tiệc thánh với lời chúc tụng và phán truyền của chính đức Giê-su: “Các con hãy nhận lấy mà ăn. Này là Mình Thầy
sẽ bị nộp vì các con… Này là máu Thầy, Máu giáo ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra
cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.
Thực
chất của bí tích thánh thể chính là nghi thức của niềm tin công giáo. Người
công giáo tin và chịu phép rửa; ai ăn thịt và uống máu tôi sẽ sống đời đời… là
thể hiện niềm tin tuyệt đối vào chúa Giê-su chính là con thiên chúa đến thế
gian để lập giao ước và ban sự sống lại cho loài người như chính người đã làm trong
lịch sử. Ai không thực hiện giáo huấn của chúa và không tham gia các bí tích nhất
là bí tích thánh thể tức là không tin vào đức Giê-su do vậy sẽ chẳng được ơn
tha thứ, ơn sống lại để hưởng hạnh phúc đời đời như chính Người. Đó chính là ý
nghĩa quan trọng nhất từ công cuộc cứu độ của đức Giê-su.
(…….)
Bình
minh – Bùi Văn Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét