Gia Cát Lượng đầu tiên là khóc Chu Du. Năm 36 tuổi,
vị đô đốc thủy quân của Đông Ngô Chu Du đã bất hạnh tiêu vong, Gia Cát
Lượng mang theo Triệu Tử Long và một số người khác nữa đến phúng viếng.
Chỉ thấy Khổng Minh tới trước linh sàng Chu Du, bày lễ vật, tự rót rượu,
đổ xuống đất rồi khóc lớn, vừa khóc vừa thuật lại Chu Du sinh thời anh
hùng, văn tài võ lược, rộng lượng chí cao như thế nào, rồi giúp Tôn
Quyền cát cứ Giang Đông, xây dựng sự nghiệp ra sao. Ông ta cực lực ca
ngợi tấm lòng trung nghĩa, khí chất anh hùng của Chu Du. Đứng trước quan
tài của Chu Du, ông đau đớn nói: “Hỡi ôi Công Cẩn, sinh tử vĩnh biệt!”.
“Hồn phách có linh, xin chứng giám cho tấm lòng của tôi: từ đây trong
thiên hạ, sẽ không tìm thấy đâu kẻ tri âm! Than ôi đau đớn thay!”. Ông
ta nước mắt như suối, bi thương khóc lóc không dừng, thực là cảm động
lòng người. Những người có mặt trong buổi hôm đó không ai là không bị
nước mắt của ông ta làm cho cảm động, các tướng lĩnh không có ai không
bị tình cảm của ông ta cảm hóa.
Gia Cát Lượng
giống như đám tang mẹ, khóc lóc kêu gào. Các tướng lĩnh Đông Ngô đều bị
tung hỏa mù. Họ nghĩ không ra rằng vì sao Chu Du chết. Không phải là
người trước mắt họ, nói lời mà không giữ, chua ngoa cay nghiệt thì Chu
Du đâu đã chết nhanh như vậy. Giờ đến đám tang khóc viếng, phân minh là
không ai ăn hiếp Giang Đông cả, có ý muốn hạ thấp Chu Du, trình hiện
trước thế nhân một giả tượng rằng: không phải là tôi, Gia Cát Lượng, thế
này thế nọ mà là ông, Chu Du, nhỏ nhen, việc ông tức khí mà chết hoàn
toàn không liên quan tới tôi. Ông xem ông chết mà tôi vẫn còn tới khóc
viếng ông, ông phải nói tôi thật rộng lượng mới đúng! Đối với một người
đã chết mà ông ta vẫn không từ bỏ, lòng dạ Gia Cát Lượng quả thật còn
hơn lang sói.
Đọc tiếp >>
Đọc tiếp >>
Nghe nói loài cá khi ăn thực vật,
có một loài có biểu hiện rất giống con người: chảy nước mắt. Loài cá quả
thực là có biết chảy nước mắt, chỉ là chúng hoàn toàn khóc không phải
vì thương tâm mà là do lượng muối dư thừa trong cơ thể nó bài tiết ra.
Chức năng bài tiết của thận cá không được hoàn thiện như, trong cơ thể
dư thừa quá nhiều muối, cần phải dựa vào một tuyến muối đặc thù để bài
tiết. Tuyến muối trong cơ thể loài cá nằm rất gần vùng mắt của cá. Tuyến
muối này có thể giúp loài cá tiêu giảm bớt lượng muối trong nước biển,
từ đó mà nước biển nhạt đi. Vì thế, tuyến muối là dụng cụ làm nhạt nước
biển của thiên nhiên.
Nước mắt của loài cá này
hoàn toàn không phải là do tình cảm mà là một loại giả từ bi, giả thương
tâm, giả cảm thông. Loại nước mắt này chỉ là một tuyến ở vùng phụ cận
của mắt làm ra một trò đùa quái đản, chỉ cần khi cá ăn, loại tuyến phụ
sinh bài tiết ra một loại dung dịch muối của tự nhiên. Trong cuộc sống
loại ngụy quân tử giả từ bi này thật đáng mỉa mai!
Tiếng
khóc “ghi dấu kinh điển” của Gia Cát Lượng chính là lần khóc chém Mã
Tốc. Gia Cát Lượng ra Kì Sơn bắc phạt, ban đầu giành thắng lợi, giành
được ba quận vùng Lũng Tây, thanh thế làm chấn động Ngụy quân. Đột nhiên
có tin báo, Tư Mã Ý xuất quan, hành quân cấp tốc. Gia Cát Lượng liệu
định chắc rằng Tư Mã Ý sẽ lấy Nhai Đình, chặn yết hầu của quân Thục. Vì
thế muốn phái một thượng tướng danh tiếng đến trấn thủ ở Nhai Đình,
không ngờ Mã Tốc muốn được nhận nhiệm vụ, cam kết “nếu như thất bại,
chém đầu cả nhà”. Mã Tốc vốn là một thư sinh, bàn việc binh trên giấy
còn khả dĩ, không hề có một chút kinh nghiệm thực chiến. Chỉ vì ông ta
có sự giao hảo riêng với Gia Cát Lượng, lại là một nhân vật thuộc phái
Kinh Tương. Chỉ vì cho ông ta một cơ hội kiến công lập nghiệp, Gia Cát
Lượng đã không nghe lời mọi người mà đề bạt Mã Tốc. Kết quả, Mã Tốc sau
khi tới Nhai Đình đã chống lệnh, không nghe lời can gián, lập trại ở
trên núi, cuối cùng đã bị Tư Mã Ý trước chặn đường thủy, lại phóng hỏa
đốt núi, tuy Thục quân mấy lần cứu viện nhưng rốt cục Nhai Đình vẫn mất.
Sau
khi Nhai Đình thất thủ, Gia Cát Lượng phải sửa chữa cục diện thất bại
của mình, thân là chủ tướng ông ta không thể đổ thừa trách nhiệm cho ai.
Nhưng là một để bảo toàn danh dự cho bản thân, nên đã đem toàn bộ sai
lầm trong cuộc chiến đó đẩy hết cho Mã Tốc, luôn miệng nói là thất bại
Nhai Đình là một sự kiện trọng đại trong chiến tranh. Mẫ Tốc không cách
gì đã trở thành vật hy sinh của ông ta. Gia Cát Lượng chém khi chém Mã
Tốc có ba lần ông ta chảy nước mắt như loài cá.
Lần khóc thứ nhất là trách mắng sai lầm của Mã Tốc. Nói Nhai Đình là gốc
của quân Thục, ngươi đã lấy sinh mạng cả gia đình để lĩnh trách nhiệm
nặng nề đó, nay mất đất mất thành, tất sẽ bị xử chém. Lúc đó Mã Tốc cầu
xin rằng sau khi giết chết ông ta có thể ban ân tha chết cho con ông ta,
Gia Cát Lượng bị lời khẩn cầu của một người sắp chết làm cho cảm động,
ông ta lập tức đáp ứng thỉnh cầu, đổng thời chảy nước mắt nói: “Ta và
Nhữ Nghĩa (tên tự của Mã Tốc) là huynh đệ, con của ông cũng chính là con
của ta, không cần dặn dò quá nhiều”. Ý là muốn Mã Tốc yên tâm mà đi.
Mã
Tốc vốn có giao hảo với Gia Cát Lượng, nay vì lợi ích của bản thân, ông
ta không thể không giết Mã Tốc. Giờ đối diện với đề xuất cuối cùng của
một người cha cho con mình, lương tâm của ông ta cũng không hoàn toàn
mất đi.
Lần thứ hai khóc là lần can gián của
Tưởng Uyển. Trong cách nhìn của Tưởng Uyển: “Nay thiên hạ chưa định, mà
giết người mưu trí, chẳng đáng tiếc lắm hay sao?”. Khổng Minh cũng biết
rằng Mã Tốc cũng có chỗ khả dụng. Trước đây Mã Tốc đã vì Khổng Minh hiến
kế hai lần và cả hai lần đều giành được thắng lợi lớn: Lần thứ nhất là
bảy lần bắt Mạnh Hoạch, ông ta kiến nghị lấy công tâm làm đầu. Một lần
khác là lợi dụng kế phản gián, gây xích mích trong quan hệ giữa Tào Duệ
và Tư Mã Ý, kết quả là Tư Mã Ý bị biếm về quê. Gia Cát Lượng không phải
không biết tài năng của Mã Tốc Mã Tốc không chết nhất định trở thành
cánh tay đắc lực của ông ta, nhất định có thể giúp ông ta đối phó với
một số người như Lý Nghiêm,… Nhưng ngày hôm nay nếu như không chết, rất
có thể địa vị của ông ta trong tập đoàn Kinh Tương sẽ bị lung lay. Giết
chết Mã Tốc cũng giống như chặt đứt một cánh tay của ông ta. Lúc đó nội
tâm của ông ta cực kì phức tạp mâu thuẫn, làm sao ông ta không thương
tâm cho được?
Lần thứ ba là sau khi nhìn thấy
thủ cấp của Mã Tốc, Không Minh lại không nén nổi sự đau đớn nội tâm,
khóc lớn không thôi. Lúc này Tưởng Uyển vẫn ngoan cường hỏi: “Nay kẻ ấu
trĩ thường mắc tội, đã xử theo quân pháp, thừa tướng hà cớ gì phải
khóc?”. Đây là lần đâu tiên Khổng Minh nghĩ tới thất bại do việc mình
dùng người không đúng gây ra, và lại sai lầm này là không thể thông cảm
được. Gia Cát Luợng từ sau khi Lưu Bị chết, gạt bỏ sự độc chiếm quyền
bính của Lý Nghiêm, ….
Gia Cát Lượng khóc Chu
Du, khóc Mã Tốc là giả nhân nghĩa lấy lòng người, vừa ăn cướp vừa la
làng. Là một kẻ đầy mưu mẹo trên chính trường, ông ta rất giỏi vận dụng
những biểu tượng để ngụy trang cho chính mình. Tào Tháo ba lần cười cũng
có ba lần khóc. Ông ta khóc lần thứ nhất là khóc toàn gia đình mình bị
Đào Khiêm giết chết, ai không thương cha thương mẹ, Tào Tháo khóc, có
thể nói là khóc một cách thực tâm. Lần thứ hai khóc là khóc Điển Vi. Năm
đó, Tào Tháo dẫn quân thảo phạt Trương Tú, bị trúng kế của Trương Tú,
thân bị bao vây. Điển Vi sau khi mơ thấy cảnh đó, tỉnh dậy đã “ra sức
hướng về hành quân”, đến chết cũng không lui, máu chảy đầy đất mà chết
nhờ thế mà Tào Tháo thoát hiểm. Tào Tháo sau khi chỉnh đốn quân đội,
đánh lui Trương Tú, lập tức làm lễ tế Điển Vi, tự thân mình khóc tế ông
ta. Hai năm sau, Tào Tháo lại dẫn quân tới Uyển Thành tấn công Trương
Tú, Tào Tháo đột nhiên khóc lớn, còn nói, ta từng đau đớn mất con
trưởng, cháu yêu, nhưng ta chỉ khóc đại tướng Điển Vi của ta. Đây cũng
là lần Tào Tháo khóc để lấy lòng người. Lần thứ ba khóc là khóc Quách
Gia sau thất bại trong trận Xích Bích, “Nếu có Phụng Hiếu ở đây, ta đã
không cô độc đến thế này”. Lần khóc này là để che đậy cho sai lầm của
bản thân mình cũng là trách mắng bọn mưu sĩ vô năng, đương nhiên ông ta
không quên rẳng Tuân Húc từng nhắc nhở ông ta về kế trá hàng, kế liên
hoàn của Đông Ngô và cả chuyện gió Đông nữa nhưng là do Tào Tháo không
nghe. Lần khóc này là sự che đây ngụy trang cho sai lầm của bản thân ông
ta mà cũng là bộc lộ sự gian xảo giả dối của ông ta.
Tập
Tạp Xỉ bình Gia Cát Lượng nói: “Vì thiên hạ chủ trì đại cục, muốn đại
thu lực vật mà không lượng tài năng mà nhậm trọng trách, theo tài phó
nghiệp; biết đó là một lỗi nặng, không tuân sự nhắc nhở của minh chủ,
giết người hữu ích, thật khó mà gọi là người có trí được vậy”. Tập Tạp
Xỉ cho rằng Gia Cát Lượng không đủ để gọi là người có trí nhưng ông ta
không nhìn thấy rằng tuy Gia Cát Lượng tuy không phải là người có trí
nhưng mà ông ta là bậc có mưu. Chỉ nhìn mấy lần ông ta dùng nước mắt để
tạo ra cái thanh danh hiền thần hiếu tử cũng có thể thấy là đã đạt tới
đỉnh cao của kẻ giết người không dao.
Trên thế
giới vốn không có hận thù vô duyên vô cớ, cũng không có tình yêu vô
duyên vô cớ. Là một con người có thất tình lục dục, phải sống trên trên
cõi hồng trần tục thế, không cách nào thoát khỏi những hỷ nộ ai lạc do
cuộc sống mang lại. Trong cuộc sống có khoái lạc, cũng có đau thương,
bất tất phải cố ý tu sức cho bản thân mình chỉ cần dùng chân tâm, chân
tính, chân cảm của bản thân thì có thể đối diện với cuộc sống, lớn tiếng
mà khóc, lớn tiếng mà cười. Dùng cái chân tình biểu hiện cho chính
mình, ấy mới có thể xem như là một con người./.
Nguồn: Internet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét