MENU

Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012

TIỂU THUYẾT TUỔI THƠ – KỲ 9



                           TIỂU THUYẾT TUỔI THƠ – KỲ 9
                                                                                  Bình Minh (BVT)

                                                            SỐ ĐỎ

            Tôi biết và tôi hiểu những hy sinh và cố gắng vô cùng của bố mẹ tôi để có thể cho tôi đi học tiếp. Cũng chính vì thế mà tôi có thêm động lực và quyết tâm học hành thật tốt, thật tốt để không phụ lòng mong mỏi công sức mà họ đã dành cho tôi. Tôi thi đỗ cấp ba trung học phổ thông với số điểm khá cao tiếp tục được xếp vào lớp chọn của trường.
            Lên cấp ba tôi phải học ngày hai buổi mặt khác em gái tôi cũng lớn hơn có thể chăn trâu được nên tôi ít khi dắt trâu ra đồng mà đượ ưu tiên cho việc học nhiều hơn. Thấm thoát cũng đã hết nửa đầu học kì một của năm lớp mười, trường mới, bạn mới cũng đã quen thân hơn. Nhà trường bắt đầu thi tuyển chọn học ra những sinh giỏi cho các bộ môn để tập trng ôn thi cấp tỉnh. Vốn có khả năng trội hơn về các môn xã hội nên tôi đã được vài ba thầy cô giáo các môn xã hội gọi mời. Nhưng tiêu chuẩn nhà trường là một học sinh chỉ được phép chọn một môn học để ôn. Tôi đã quyết định chọn thamgia đội tuyển ôn tập môn lịch sử.        

Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2012

TIỂU THUYẾT TUỔI THƠ KỲ 8 – SỐ PHẬN



                                                TIỂU THUYẾT TUỔI THƠ KỲ 8 – SỐ PHẬN
                                                                        Bình Minh (BVT)

                                                            SỐ PHẬN

           
            Từ khi kiên quyết từ bỏ cái thời kì kiếm tiền sơ khai thuở trẻ thơ đầy vui buồn xuôi nghịch tôi bắt đầu chuyên tâm vào đèn sách. Có lẽ cái giấy khen tiên tiến cũng như việc tôi vào được lớp chọn mà động lực học của tôi cao hơn hẳn. Cả năm lớp 8 tôi tiến bộ rõ rệt, rồi sang lớp 9 thì có quá nhiều sự đổi thay. Lần đầu tiên tôi được chọn tham gia đội tuyển học sinh giỏi của trường để thi cấp huyện. Sự đổi thay ấy là động lực và cũng còn có thêm cả phần may mắn đến với tôi bởi đội tuyển tôi tham gia có ưu thế hơn hẳn các đội tuyển khác về giáo viên hướng dẫn. Sự ưu thế nằm ở chỗ giáo viên hướng dẫn chúng tôi ôn tập là người có trình độ chuyên môn và có kinh nghiệm nhất trong toàn huyện. Cũng chính cô là người có được đề cương ôn tập ngắn nhất và trọng tâm nhất để tập trung cho chúng tôi ôn luyện chuyên sâu tránh lan man dài dòng. Kết quả sau kì thi đó môn địa lý mà tôi thi gồm có 3 học sinh đạt giải nhất toàn huyện. Chúng tôi được trung tâm giáo dục thường xuyên huyện gửi giấy báo mời vào trường năng khiếu của huyện để nhập học và ôn thi cấp tỉnh. Sau khi chuyển vào trường mới học được ba buổi thì tôi quyết định không thể tập trung vào một môn học duy nhất mà phải quay về trường cũ học tập nhằm mục đích học đều các môn để đạt kết quả cao và chuẩn bị cho kì thi cấp ba sắp tới.

TIỂU THUYẾT TUỔI THƠ KỲ 7 - ỐC BƯƠU



                                                TIỂU THUYẾT TUỔI THƠ KỲ 7
                                                                        Bình Minh (BVT)


                                                            ỐC BƯƠU

            Lũ trẻ ở cái xóm nghèo ven biển quê tôi sinh ra và lớn lên với đủ mọi vật lộn với thời cuộc. Thế hệ chúng tôi sinh ra vào đúng giai đoạn xã hội vận động chuyển sang đổi mới sau hàng loạt những khủng hoảng trầm trọng cả về kinh tế, chính trị, xã hội. Trong kí ức thơ bé của tôi – một đứa trẻ trong một gia đình nghèo nhất cái làng quê nghèo ngày ấy vẫn còn in đậm những bữa ăn sáng vào những ngày mùa, cái bát cơm – gọi là cơm cho đúng với hương vị của cuộc sống chứ thực ra đó là một loại cám mịn mà những người say xát gạo thường bán. Khi người ta đổ thóc vào để xát thì gạo sẽ tuôn ra một cửa còn cám sẽ ra một cửa. Những mủi cám rất mịn sẽ theo tốc độ gió bay vào một cửa mà phía ngoài người ta đã buộc sẵn một cái bao vải rất to. Cứ say xát khoảng nửa tháng thì họ mới tháo bao ra rồi lấy số bột đó bán cho những ai cần mua. Có người mua về cho lợn ăn, còn riêng nhà tôi những ngày cuối cùng trước khi có đợt cơm mới thì chẳng còn được đáng là bao nhiêu gạo, dung để nấu ăn bữa chính còn chẳng đủ nói gì đến nấu ăn bữa sáng. Mà bữa sáng chỉ có những ngày mùa màng vất vả mới được ăn chứ ngày thường thì nhịn. Nhưng ngày ấy mẹ tôi mua loại cám mịn ấy về rồi nấu lên cho cả nhà lót dạ để có sức mà làm việc. Dư vị của nó thật không thể nào tôi quên dù rằng khi đó tôi cũng chỉ lên bốn năm tuổi. Quá khứ tuổi thơ tôi đọng lại không nhiều nhưng cái mùi và cái vị của món cám ấy thì không hiểu sao chẳng thể nào phai nhạt trong tôi. Nó có mùi thơm của gạo của cám, có cả vị chát lại có chút gì đó ngọt ngọt. Mẹ tôi thường nấu từ sớm, múc ra bát cho mỗi người một bát rồi đến bữa mọi người ngồi vào ăn, lúc ăn thì số cháo loảng ấy cũng đã nở ra và đông lại như một khối bánh với lấm tấm những màu trăng trắng của bột gạo điểm thêm những hạt li ti vàng vàng của bụi cám ăn vừa mềm mềm lại có cái gì đó lạo xạo trong miệng. Có những buổi cả nhà tôi đi gặt chỉ còn mình tôi ở nhà trông nhà, trông em rồi lúi húi cuàng lấy một nắm bột cám ấy cho vào nấu để ăn cho đỡ thèm. Với cái ý nghĩ trẻ thơ là có bột có nước thì đổ nhiều nước chút để nấu lên sẽ được nhiều hơn. Cái xoong 3 bơ mà tôi đổ tới một nửa xoong là nước mà chỉ có một nắm bột. Khi nấu lên nước đã sôi mà chẳng thấy sản phẩm nào như mẹ tôi đã làm cho cả nhà mọi sáng…. Có lẽ ở cái độ tuổi năm tuôi còn quá nhỏ để nhớ được nhiều điều nên những kỉ niệm quá khứ đó trong tôi cứ chập chờn ẩn hiện không  rõ ràng chi tiết nhưng cho mãi đến khi tôi bước vào cấp ba được học đến tác phẩm của Kim Lân thời nạn đói năm bốn năm khi bà cụ Tứ nấu món cám mừng con dâu mới mà bà gọi là Chè thì những hồi ức trong tôi bỗng trào về một cách rất đầy đủ và chân thực. Một sự đồng cảm chăng? Hay đó là niềm xúc động bất chợt? Hay đó là bản sao của một góc quá khứ mà mình đã trải qua? …

Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012

CHUYÊN ĐỀ TÌM HIỂU MỘT SỐ ĐIỀU VỀ ĐẠO CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM - PHẦN IV

CHUYÊN ĐỀ TÌM HIỂU MỘT SỐ ĐIỀU
VỀ ĐẠO CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM
                                        Tác giả: BÌNH MINH (Bùi Văn Thạch)
CHƯƠNGIV
Những giá trị văn hóa đẹp trong cuộc sống của người Công giáo Việt Nam
            Tôi viết tiêu đề như thế không phải là phủ nhận những giá trị văn hóa truyền thống rất đẹp của mọi người dân Việt Nam kể cả lương dân lẫn giáo dân mà nhằm một mục đích suy niệm, tìm tòi ra những nét đẹp riêng mang BẢN SẮC KI-TÔ mà người công giáo Việt Nam đã tiếp nhận và hòa hợp nên một trong họ. Sự hòa hợp của cái bản sắc dân tộc và bản sắc Ki-tô giáo đã làm cho người Công giáo Việt Nam nên đẹp hơn ở nhiều khía cạnh đúng như giáo huấn của Vatican gửi cộng đồng giáo dân thế giới rằng: Sống đức tin trong lòng dân tộc!
            Là một bộ phận cấu thành cộng đồng dân tộc Việt Nam yêu dấu, người công giáo cũng mang trong mình những giá trị văn hóa truyền thống đã ăn sâu vào máu, vào trái tim vào nhiệt huyết, nó thấm đậm đến từng huyết mạch và hơi thở của họ như bao người dân Việt vậy. Dù bắc hay nam, đông hay tây, miền núi hay đồng bằng ven biển tất cả những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của họ đều mang một bản sắc rất chung Việt Nam nhưng cũng mang những giá trị riêng của từng vùng miền mà văn hóa học gọi là “Văn hóa Vùng”.

Thứ Bảy, 8 tháng 12, 2012

NHÃ CA TRONG CỰU ƯỚC: TÁC PHẨM TÌNH DỤC TUYỆT MỸ CỦA NHÂN LOẠI

 TS PHẠM TRỌNG CHÁNH
NTT: Tháng trước nhà thơ Việt Phương có gửi cho tôi bản dịch NHÃ CA của ông. Một bản dịch đầy chất thơ, với những ngôn từ tao nhã và gợi tình. Tôi đề nghị ông cho đăng lên nhưng ông bảo để xem lại đã. Trong khi chờ nhà thơ Việt Phương “xem lại”, tôi nhận được bài viết và bản dịch từ TS Phạm Trọng Chánh, Tiến Sĩ Khoa Học Giáo Dục, Viện Đại Học Paris V Sorbonne. Bản dịch này là một cố gắng đáng kể, xin giới thiệu để bạn đọc thưởng thức.
Nhã Ca là một tác phẩm văn chương cổ đại của dân tộc Do Thái, cách chúng ta khoảng 630 năm trước Tây lịch. Một áng văn chương trữ tình, mỹ tình dục nói lên lời yêu đương tình cảm và thân xác đôi trai gái. Một tác phẩm tuyệt tác trong kho tàng văn học nhân loại. Vào thời đại đồ sắt, nước Do Thái bị chia đôi làm hai nước và 12 bộ tộc, để thống nhất dân tộc Do Thái bị chia rẽ,ảnh hưởng việc vua Ai Cập đương thời chủ trương một vị thần duy nhất là thần Mặt Trời, thay vì hàng ngàn thần, vị vua đương thời Josias đã đề ra 7 điều thống nhất: Một vị thần Yavée duy nhất cho dân Do Thái, một dân tộc duy nhất, một vị vua duy nhất, một bộ sách giáo khoa  duy nhất, một thủ đô duy nhất là Jérusalem, một ngôi đền duy nhất, một nghi lễ tôn giáo Do Thái Giáo duy nhất. (Xem Israël Finkelstein et Neil Asher Silberman. La Bible dévoilée. Bayard. Paris 2002.)

Chủ Nhật, 2 tháng 12, 2012

Chuyên đề tìm hiểu về đạo công giáo Việt Nam - Phần III


CHƯƠNG III. “ HỘI LÀNG” CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO
                                                                                         Tác giả: Bình Mình (BVT)

            
            Nói đến hội làng thì tôi chắc rằng bất kì ai là người Việt Nam cũng hiểu được giá trị và nét đẹp của nó. Tuy nhiên khi tìm hiểu đời sống của cộng đồng người Công giáo Việt Nam thì chúng ta lại không hề thấy họ có hội làng? Đơn giản bởi theo tín ngưỡng Ki-tô giáo thì các tín hữu chỉ được thờ một thiên chúa duy nhất “hết lòng, hết sức, hết linh, hết trí khôn” ngoài ra không có một chúa nào khác. Vì lẽ đó mà chẳng có thành hoàng làng, cũng chẳng có thổ công thổ địa cũng tức là chẳng có hội làng theo nguyên nghĩa văn hóa Việt Nam cổ truyền.
            Tưởng thế mà không phải thế!
            Người công giáo cũng có những cách thức riêng để làm nên một hội làng theo đúng tinh thần Ki-tô giáo. Cũng có đầy đủ phần lễ và phần hội như nhiều hội làng khắp cả nước nhưng nó được biến đổi một cách linh hoạt cho phù hợp với hoàn cảnh, văn hóa, phong tục, lối sống và niềm tin tôn giáo. Nó tạo nên một sự linh hoạt trong văn hóa cộng đồng giáo dân công giáo Việt Nam. Ở những vùng mà giáo dân chiếm đại đa số dân cư như khu vực Bùi Chu, Phát Diệm… chúng ta sẽ thấy văn hóa hội làng theo tinh thần Ki-tô giáo được thể hiện rất rõ.
            Ngày hội làng của người công giáo thường được chọn là ngày lễ thánh quan thầy bảo trợ của giáo họ (đơn vị làng của người công giáo). Thông thường mỗi một giáo họ, giáo xứ khi thành lập sẽ tự chọn cho mình một vị thánh trong số các vị thánh đã được giáo hội tuyên phong và suy tôn để làm vị thánh (“thần”) bảo trợ cho giáo dân của giáo họ, giáo xứ đó (giống như các vị thần, thành hoàng làng vậy). Và mỗi năm khi đến ngày mà giáo hội suy tôn vị thánh đó thì những giáo dân, giáo xứ sẽ tổ chức lễ hội, rước kiệu linh đình với niềm vui khôn tả và một tinh thần rất đậm chất suy tôn. Ví dụ như giáo xứ - nhà thờ chính tòa Bùi chu hàng năm sẽ suy tôn vị thánh quan thầy là Đa-minh vào ngày 8/8 dương lịch; hay như vương cung thánh đường- đền thánh Phú Nhai (thuộc Bùi chu) sẽ tổ chức lễ kính thánh quan thầy vào ngày 8/12 – ngày giáo hội dành để tôn vinh Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội; hay như ngày 3/12 là ngày suy tôn thánh Phanxico Xavie của giáo xứ Lạc Nam(Bùi Chu)…
            Trong những ngày chuẩn bị lễ kính đó toàn thể giáo dân, các hội đoàn được triệu tập để tập dượt lại các chuyên môn của mình như hội trống, hội kèn tây, hội bát âm, hội trắc … Giáo dân và các chức sắc tôn giáo cũng chung tay dòn dẹp sơn sửa lại kiệu thánh, khuân viên nhà thờ … sao cho thật đẹp đẽ khang trang. Nhà nhà, người người đều tập trung dòn dẹp nhà riêng đẹp hơn, sạch hơn rồi tham gia dọn dẹp thánh đường. Mọi người đi mời khách là những người thân quen ở các làng khác (giáo họ giáo xứ khác) đến tham dự thánh lễ và sau đó sẽ về nhà gia chủ cùng chung bữa cơm vui tươi dầm ấm!
            Đến ngày lễ giáo dân từ già trẻ, gái trai đến các ông các bà trung niên, các cụ cao niên ai vào hội đấy đều nghiêm trang cùng hội đoàn của mình tham gia đoàn rước kiệu kính thánh quan thầy theo đường rước quanh khu nhà thờ đã được quy định từ trước. Cuộc kiệu này nhằm suy tôn vị thánh quan thầy đã bảo trợ giáo dân, giáo họ, giáo xứ, đồng thời cũng nhằm thể hiện niềm vui và hạnh phúc của mỗi người dân trong ngày hội lớn của làng. Mặt nữa còn thể hiện niềm tin và tinh thần Ki-tô giáo phong phú và đặc sắc.
            Cũng tùy từng giáo họ to hay nhỏ, nhiều hội đoàn hay ít  mà người ta tổ chức cuộc rước dài hay ngắn. Dưới đây tác giả xin được nói về diễn trình của một cuộc rước với đầy đủ các đoàn hội tổ chức thường thấy theo một trình tự như sau:

Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2012

Thơ Đá cuội - Nguồn

NGUỒN
     Bình Minh(BVT)

Nguồn tít trên cao?
Suối chảy rì rào
Giật đèo thác đổ
Ầm!

Chuyên đề tìm hiểu về đạo công giáo Việt Nam- Phần II


CHƯƠNG II
Ý NGHĨA THÁNH LỄ CÔNG GIÁO VIỆT NAM

      Trong đời sống Ki-tô hữu thì cầu nguyện là một hành động thường xuyên cần làm và được giáo hội khuyến khích thực hiên. Còn việc tham dự thánh lễ là một điều bắt buộc mỗi tín hữu phải hiệp thông ít nhất một tuần một lần vào ngày chủ nhật và các ngày lễ trọng khác theo lịch. Tìm hiểu thánh lễ của người công giáo tại Việt Nam cũng mang những nét chung cơ bản của các thánh lễ công giáo trên thế giới. Tuy nhiên đôi chỗ cũng có những nét riêng để phù hợp với khuân khổ và hoàn cảnh văn hóa xã hội của Việt Nam. Dưới đây tôi xin được luận giải ý nghĩa chi tiết từng phần, từng nghi thức của thánh lễ công giáo tại Việt Nam theo nguyên tắc tôn trọng và phản ánh đúng, đầy đủ tiến trình từ đầu đến cuối của một buổi lễ. Giá trị đích thực của việc dâng thánh lễ với người Công giáo chủ yếu nằm ở hai vấn đề chính yếu sau:
1.      Việc thể hiện niềm tin tôn giáo - suy ngẫm lời chúa để củng cố thêm niềm tin tôn giáo;
2.       Tưởng niệm lại những hy lễ mà Giêsu đã truyền dậy (còn gọi là phép thánh thể) qua đó biến những bánh và rượu thành vật tế lễ mà loài người dâng lên thiên chúa để xin ơn hiệp thông và ơn tha tội ngõ hầu được an bình trong chúa.
Thánh lễ công giáo bao gồm bốn phần cơ bản là:
1. Nhập lễ (Từ đầu đến lời nguyện nhập lễ)
2. Phụng vụ Lời Chúa (Từ khi đọc bài đọc 1 đến hết lời nguyện giáo dân)
3. Phụng vụ Thánh Thể (Từ dâng lễ vật cho đến hết phần rước mình thánh chúa)
4. Kết lễ (Phần còn lại)

PHẦN I: NHẬP LỄ
            Nghi thức nhập lễ chỉ là phần khởi đầu của thánh lễ để dẫn nhập vào phần quan trọng sau đó là phụng vụ lời chúa. Cũng chính vì thế mà tùy những trường hợp dâng lễ cụ thể mà linh mục có thể cắt bớt một vài khâu ở nghi thức đầu lễ để thánh lễ diễn ra nhanh, gọn phù hợp với hoàn cảnh. Sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu trình tự từng nghi thức trong phần nhập lễ trong một thánh lễ hoàn chỉnh:
            1. Hát Nhập lễ:
            Trong bất kỳ một giáo họ, giáo xứ nào cũng đều có một hội những người hát lễ gọi là ca đoàn. Việc thực hiện các bài hát ca tụng được ca đoàn phụ trách và cộng đoàn cùng với ca đoàn hòa một nhịp tạo nên một “cộng đoàn ca” trong thánh lễ. Có những nơi thì trước thánh lễ ca đoàn đã chuẩn bị sẵn tất cả các bài hát trong thánh lễ in ra giấy để ộng đoàn học trước và hát cùng ca đoàn trong thánh lễ. Tuy nhiên có nhiều nơi thì ca đoàn phụ trách hát (những bài hát theo khuân khổ quy định trong sách phụng vụ thánh lễ, hoặc những bài hát thánh ca có ý nghĩa tương tự như chủ đề thánh lễ) và khi ca đoàn hát thì cộng đoàn ai thuộc sẽ hát theo, ai không thuộc thì nghiêm trang lắng nghe và hiệp thông sốt sắng. Trong khi ca đoàn hát thì Linh mục (chủ tế) cùng đoàn lễ nghi sẽ bước ra trước bàn thờ để làm thủ tục tiến lên bàn thờ chuẩn bị dâng thánh lễ.
            Thông thường các bài hát đầu lễ sẽ thể hiện được chủ đề của ngày lễ đó là lễ mừng hay lễ phụng vụ, chủ đề của tin mừng hôm đó hướng tới vấn đề gì…. Tuy nhiên mục đích cơ bản nhất của bài hát đầu lễ là tạo nên một không khí hiệp nhất cho cộng đoàn khi tất cả mọi người cùng đứng trước bàn thờ ca vang lời ca đầu lễ, cũng là bài hát để lấp đầy khoảng thời gian trống trong lúc đoàn lễ nghi từ phòng chuẩn bị tiến ra bàn thờ chuẩn bị bắt đầu thánh lễ.
            Sau khi chủ tế đã tiến lên bàn thờ, chủ tế  sẽ tiến lại hôn bàn thờ, đoàn lễ nghĩ (những người giúp việc thánh lễ) sẽ tiến về vị trí của mình thì ca đoàn và cộng đoàn sẽ ngưng hát ca khúc nhập lễ. Nghi thức hôn bàn thờ (có những thánh lễ quan trọng còn có cả xông hương bàn thờ) nhằm thể hiện sự tôn vinh thiên chúa mà cụ thể ở đây chính là đức Giê-su vì chính ngài là trung tâm của thánh lễ, chính ngài ngự nơi bàn thờ và cũng chính ngài là bàn thờ và là vật tế lễ của bàn thờ để con người dâng lên chúa cha. Nếu có xông hương cũng nhằm tạo thêm phần long trọng, thêm sự ấm cúng trong nghi thức.
            2. Làm dấu thánh giá và lời đầu lễ
            Việc làm dấu thánh giá như một khởi đầu bắt buộc với mọi giáo dân khi cầu nguyện hoặc dâng thánh lễ. Đó là câu nhân danh thiên chúa thể hiện lên mầu nhiệm một chúa ba ngôi: “Nhân danh thiên chúa cha và chúa con và chúa thánh thần”. Việc làm dấu được đánh trên trán tới trái tim rồi hai vai và kết thúc bằng Amen tạo nên một nét vẽ hình thánh giá trên cơ thể mỗi giáo dân cũng nhắc nhở giáo dân nhớ tới cây thập giá mà chính Giê-su đã chịu chết để cứu nhân loại. Và không chỉ trong thánh lễ mà ở bất kì đâu khi làm dấu thì đó cũng là hành động đặc thù nhất để  người công giáo khẳng định cho mọi người biết họ chính là người mang niềm tin công giáo và tự hào là con cái thiên chúa.
            Câu kết Amen chính là ngôn ngữ của người Do-thái. Đạo công giáo lấy nguyên văn câu kết đó để thể hiện đúng, đầy đủ bản chất và ý nghĩa của một lời nguyện kết mà con người dâng lên thiên chúa. Có thể hiểu đại ý của từ Amen dịch từ tiếng Do-thái sang tiếng Việt có nghĩa là “vâng”, “đúng như vậy”, “ước như vậy” hoặc “tin như vậy”. Nói chung tùy ngữ cảnh của lời nguyện mà chúng ta có thể hiểu theo một chiều hướng nào đó dễ nghe và dễ hiểu nhưng tựu chung lại thì đó là câu kết khẳng định niềm tin vào những gì mà người công giáo đã tuyên xưng trước đó, hoặc xin trước đó.

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012

CHUYÊN ĐỀ TÌM HIỂU MỘT SỐ ĐIỀU VỀ ĐẠO CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM - PHẦN I


CHUYÊN ĐỀ TÌM HIỂU MỘT SỐ ĐIỀU
VỀ ĐẠO CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM

Tác giả: BÌNH MINH (Bùi Văn Thạch)


CHƯƠNG I
KIẾN GIẢI MỘT SỐ ĐIỀU VỀ KI-TÔ GIÁO


            Ki-tô giáo lấy bộ kinh thánh Cựu ước và Tân ước làm bộ sách thánh của mình. Một điều đắc biệt mà hôm nay ai cũng biết ấy là Kinh thánh Ki-tô giáo chính là bộ sách bán chạy nhất thế giới mọi thời đại. Có điều đó một phần cũng do người theo đạo Chúa Trời đứng hàng thứ 1 thế giới về số đông nhưng cũng một điều nữa là những vấn đề mà cuốn sách ấy đưa ra có sức hấp dẫn riêng của nó mà không phải chỉ những tín hữu mới mua mà rất nhiều người chẳng theo tín ngưỡng Ki-tô vẫn mua để tìm hiểu, luận giải nhiều điều của riêng họ.
            Nhiều người nói rằng “Cựu ước” nên đổi tên thành Giao ước thứ nhất, còn “Tân ước” nên đổi thành Giao ước thứ hai, tôi không phủ nhậ những suy luận logic của họ bởi điều đó cũng có phần đúng. Thực chất Cựu ước hiểu theo nguyên nghĩa của nó tức là Giao ước cũ (Cựu: cũ; Ước: Giao ước, hẹn ước), và Tân ước tức là Giao ước mới (Tân: mới; Ước: Giao ước, hẹn ước). Đạo Công giáo lấy cả Cựu ước và Tân ước làm hai bộ sách thánh và gọi là Kinh thánh trọn bộ. Theo một góc nhìn nào đó thì rõ ràng nếu có giao ước mới thì sẽ thay thế giao ước cũ là lẽ đương nhiên, tuy nhiên vấn đề ở đây chính là việc phát sinh giao ước mới lại dựa trên nền tảng giao ước cũ chính vì thế mà dù cho có gọi là giao ước thứ nhất, thứ hai hay là giao ước cũ mới thì chúng ta đều phải hiểu rằng hai cuốn giao ước lại thống nhất trong một vấn đề và phục vụ một vấn đề ấy chính là loan truyền về đấng cứu thế.
            Có thể nói nếu chúng ta chú tâm một chút chúng ta sẽ hiểu rằng Cựu ước là cuốn sách mà ở đó đức Giê-hô-va hay là Thiên chúa của Áp-ra-ham, của I-sa-ác… đã sáng tạo nên thế giới và loài người rồi ban cho họ những đặc ân được sống hạnh phúc ấm no trong vườn địa đàng. Nhưng con người vốn dĩ mang nhục thể thế gian chịu sự cám dỗ của con rắn xảo quyệt và Eva – Adam đã ăn trái cây đức chúa cấm để rồi mang vào mình tội lỗi gọi là tội tổ tong truyền cho muôn đời con cháu. Đó chính là nguồn cơn ban đầu để có một giao ước mang tính lịch sử chính là Đức chúa sẽ sai một đấng cứu tinh đến để cứu rỗi loài người khỏi tội lỗi. Xuyên suốt kinh thánh cựu ước chúng ta sẽ thấy đó là điều quan trọng nhất, còn các giao ước khác với các tổ phụ dân Ít-ra-en thì chỉ mang tính thời đại và mang tính giáo huấn cho những con dân Ít-ra-en mà thôi. Xin ví dụ như trong cựu ước có quy định rõ nếu con người phạm tỗi có thể giết một con Chiên, con Bê… để làm lễ tế và được tha tội. Nhưng tội tổ truyền thì vẫn chẳng được tha. Vậy nên phải cần đến một hy lễ đặc biệt để có thể được thiên chúa tha thứ trọng tội này? Hy lễ đó chỉ có thể được thiết lập khi Giê-Su( còn gọi là đấng Mết-si-a hay là đức Ki-tô) – chính là con chúa Trời là Ngôi lời nhập thể là Ngôi hai thiên chúa xuống thế và lập ra.
            Trong cuốn Cựu ước có rất nhiều sách như Sáng thế, Xuất hành, Lê-vi, Đệ nhị luật, Các vua…mô tả lịch sử của loài người từ khi thiên chúa sáng tạo thế giới muôn vật và loài người đến trước thời Giê-su sinh ra, chủ yếu viết về lịch sử phát triển vận động của người It-ra-en. Khi tìm nói về cuốn Cựu ước tôi có thể nói rằng đây thực chất là một cuốn sách mang tính sử thi, thần thoại (mà nó vốn dĩ là thần thoại bởi nó là cuốn sách của đạo Do thái giáo) đã diễn tả một cách hào hùng và hung tráng những bước thăng trầm có nước mắt bi ai, có chiến thắng lẫy lừng của một dân tộc “được chúa chọn”.
            Tuy nhiên chính trong cuốn sách này đã truyền tải nhiều nội dung mà cho đến ngày nay nhiều người không thể hiểu và cũng là nguyên lý để họ nói những điều trái ngược tinh thần ki-tô giáo thậm chí là xỉ nhục đạo công giáo. Ấy chính là: Tại sao đã là Thiên chúa mà lại phải sợ con người? Thiên chúa mà lại đi ghen ghét ganh tỵ với loài người rồi chia rẽ loài người ra nhiều thứ ngôn ngữ là sao? Tại sao Adam- Eva phạm tội ăn trái cấm mà lại bắt cả loài người về sau mang tội ( rõ ràng ai làm người ấy chịu chứ sao lại bawtst muôn đời sau phải gánh chịu)? ….

Thứ Năm, 8 tháng 11, 2012

Đậu phụ thối Trung Hoa

                                Đậu phụ thối – Món ăn mang bản sắc Trung Quốc

            Nếu bạn có một lần đến với Trung Hoa thì bạn không nên bỏ qua việc thưởng thức món ăn chỉ có tại Trung Quốc và cũng trở thành biểu tượng của ẩm thực Trung Hoa ấy chính là món Đậu Phụ Thối.
            Theo tương truyền thì vào đời vua Khang Hy, có một chàng thư sinh nghèo đi thi mấy lần vẫn không đỗ đạt. Do nhà nghèo nên anh ta không có nhiều tiền để chi tiêu, ăn uống, sinh hoạt. Đến khi tiêu hết sạch số tiền mình có mà việc thi vẫn chẳng thành công anh ta quyết định nghĩ ra làm một cái gì đó để bán kiếm tiền đợi đến kì thi sau thì thi tiếp. Và anh ta đã nghĩ ra việc làm đậu hũ bán. Mùa đồng, mùa xuân mát mẻ thì dễ bán nhưng khi mùa hạ tới, đậu hũ bị ế nhiều, anh tìm mọi cách để xoay sở và thế là nghĩ ra cách cắt nhỏ đậu hũ, cho vào một cái chum và ướp muối. Thật bất ngờ, vài ngày sau mở ra thấy đậu hũ tỏa một mùi vị khó tả, sau khi mạnh dạn nếm thử anh cảm thấy rất ngon và bắt đầu mang loại đậu hũ đặc biệt đó ra bán. Và sau một thời gian dài thì người ta dần dần thích món ăn của anh chàng này rồi hỏi han cách làm. Món đậu phụ thối được lan truyền rộng rãi từ đó.
            Nếu bạn thực sự là người sành sỏi về ẩm thực thì bạn không thể bỏ qua món ăn này khi có điều kiện đến với Trung Hoa. Dù bạn có đi đến Thủ đô Bắc Kinh – trung tâm hành chính, hay đến với Thượng Hải xa hoa giàu sang lộng lẫy. Dù bạn có đi từ Hồng Kông đến Ma cao hay tới với thủ phủ Đài Bắc của xư đảo Đài Loan thì đâu đâu bạn cũng có cơ hội thưởng thức món ăn đặc sản mà giá rất bình dân này. Thông thưỡng mỗi đĩa đậu phụ thối chiên giòn tính ra tiền Việt thì nó thường được bán với giá dao động khoảng 20.000  đến 50.000 VNĐ – Một mức giá không quá đắt để bạn có thể thử một dư vị khác lạ mang đậm bản sắc Trung Hoa.
            Tôi xin nói rằng có thể bạn không thể ăn được hết một miếng đậu phụ thối nhưng bạn vẫn cần thưởng thức nó, chí ít là ngửi mùi của nó và nếm thử một chút đậu đã rán giòn bên ngoài bìa đậu. Nếu ăn lớp đậu bìa ngoài đã rán giòn về cơ bản bạn sẽ gần như không cảm nhận được mùi nặng thum thủm của món này. Đó cũng là cách để bạn biết và thưởng thức món ăn khi không thể “ngửi” được! Và nếu bạn có thời gian sinh sống tại Trung Hoa một tháng, một năm hay nhiều năm thì tôi tin rằng bạn sẽ giống như bao người Trung Quốc khác từ ngửi mùi đã sợ cho đến nghiện món ăn vô cùng đặc sắc và ấn tượng này.
            Ngửi mùi thum thủm ấy thế mà ăn lại không hề chua mà thực ra lại rất ngọt – đó mới chính là cái dư vị độc đáo của món đậu phụ thối! Thông thường đậu phụ Việt Nam chúng ta chỉ cần hơi có mùi thôi là đã chua, rữa và chẳng thể nào ăn được. Nhưng với món đậu phụ thối trung quốc người ta cố tình tạo cho nó cái mùi “thum thủm” đặc trưng nhưng nguyên tắc là phải giữ nguyên hình dạng miếng đậu và không hề bị chua mà phải ngọt ngào! Một nghịch lý nằm trong một sản phầm độc đáo là vậy!
            Người ta chọn loại đậu nành thật tốt để làm ra thứ đậu hũ mềm, mịn. Sau đó cho đậu hũ ủ với nước cốt được chế biến từ măng tre, nấm đen… trong sáu tháng, rồi vớt ra để ngoài không khí trong sáu giờ (nếu vào mùa hè) và hai ngày (nếu vào mùa đông) tới khi đậu hũ nổi mốc và chuyển thành màu xám. Sau đó, người ta rửa sạch đậu hũ bằng nước tinh khiết, để khô tự nhiên và bắt đầu mang ra bán. Thứ đậu hũ “thiên hạ đệ nhất thối” này được chiên ngập trong chảo dầu và dùng kèm với nước tương (được hâm nóng) và cải bắp muối.
                        Nếu có cơ hội các bạn hãy đừng bỏ qua mà nên thử thưởng thức xem như thế nào nhé!
                                    Bình Minh – BVT. Shanghai-China 30/09/2012

Chủ Nhật, 4 tháng 11, 2012

ĐÔI ĐIỀU MẠN ĐÀM VỀ “ĂN CỖ LẤY PHẦN”



ĐÔI ĐIỀU MẠN ĐÀM VỀ “ĂN CỖ LẤY PHẦN”
                                                                      Bình Minh 

           Gần đây tôi vô tình đọc được nhiều ý kiến của nhiều blogger nói về tục lệ ăn cỗ lấy phần, đồng tình có, phản đối có. Khen có mà chê cũng có. Nhưng tựu chung lại có rất nhiều ý kiến phản đối thậm chí còn tỏ rõ thái độ thóa mạ với cái tục lệ lạ đời này.
            Câu hỏi đặt ra trong tôi là liệu tục lệ này có đáng bị lên án đến như thế chăng?
            Đâu mới là giá trị thật sự của một tục lệ mang tính tuyền thống này?
                                    

Thứ Hai, 29 tháng 10, 2012

Nỗi lòng con



Gió cuồn cuộn, giật, bay, thổi, xoáy
Mưa ầm ầm xối xả dội trút không ngơi
Đau quặn thắt nỗi lòng quê tôi hỡi
Bão tràn về trong phút chốc tàn hoang

Khung trời xa một ngọn gió vô tình
Đem mặn chát thổi vào nơi khóe mắt
Bỗng nhói đau một nỗi niềm khôn tả
Gửi về đâu trong nỗi nhớ niềm thương

Vẫn còn đó tấm lưng còng của mẹ
Thêm một lần còng cõng cả đời bão giông
Vai gầy guộc với áo sờn năm tháng
Thêm một lần cha gánh nặng gió mưa

Những dòng tin cứ chạy tiếp chẳng dừng
Bao người chết, bao nhiêu nhà đổ sập
Gió vẫn thổi nơi con ngồi ngóng đợi
Nơi trời quê Sóng – Điện vẫn mịt mùng

Đau quặn thắt lòng con quê hương hỡi!

         Taipei, 29/10/2012 - Cơn bão Sơn Tinh khủng khiếp!

Thứ Sáu, 5 tháng 10, 2012

Thơ Đá cuội - Đá cuội

Nhặt viên đá cuôi
Ném vào vách núi
Cuội vỡ tan tành
Cạch!

Thứ Năm, 6 tháng 9, 2012

Thơ Đá cuội - Sô-lô (Solo)

Trầm hùng, cao vút
Nhịp phách rộn ràng
Lặng im, réo rắt
Sô-lô!

Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2012

Tìm hiểu đôi điều cơ bản về phật giáo

 
Khái quát về lịch sử ra đời và phát triển của phật giáo

       Phật giáo xuất hiện ở miền Bắc Ấn Độ cổ đại (nay thuộc Nêpan) vào cuối thế kỷ VI trước Công nguyên. Khi ấy trong xã hội tình trạng phân chia đẳng cấp rất khắc nghiệt. Sự ra đời của Phật giáo thể hiện tinh thần phản kháng của những người nghèo, chống lại thuyết bốn đẳng cấp của đạo Bà la môn, tìm con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ triền miên trong xã hội nô lệ Ấn Độ.Theo đạo Bà la môn, mỗi người thuộc một đẳng cấp nhất định: Bà la môn, quý tộc, bình dân gồm người buôn bán, thợ thủ công, nông dân và nô lệ… tức là có bốn đẳng cấp là Tăng lữ – đẳng cấp cao quý nhất là Bà la môn sinh ra từ miệng của đấng Tối cao là thần Sáng Tạo Brahmâ và thấp hèn nhất là tiện dân-nô lệ. Người đẳng cấp nào sẽ mãi mãi thuộc đẳng cấp ấy. Không thể thay đổi. Đạo Bà la môn chủ trương đại sát sinh và hiến tế nên gia súc bị giết chết rất nhiều để hiến tế, thậm chí tế cả người. Đối với phụ nữ, chồng chết phải hỏa thiêu và vợ cũng bị hỏa thiêu theo…- Người sáng lập Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni (nghĩa là ông thánh hay nhà hiền triết của tộc người Thích Ca). Đây là tên gọi khi thành đạo. Tên thật của Thích Ca Mâu Ni là Siddhartha (Tất đạt đa) nghĩa là “người thực hiện được mục đích”, họ là Gautama (Cù Đàm), vốn là con đầu vua Tịnh Phạn. Thích Ca Mâu Ni sinh ngày 8 tháng 4 năm 563 trước công nguyên, và mất năm 483 trước công nguyên. Năm 29 tuổi, ông quyết định từ bỏ cuộc đời vương giả của một thái tử để đi tu, tìm đường diệt khổ cho chúng sinh. Sau 6 năm, ông đã “ngộ đạo” và trở thành Thích Ca Mâu Ni (35 tuổi). Khi ấy ông lấy hiệu là Buddha có nghĩa là “người giác ngộ” (Trung quốc dịch là Phật). Người ta gọi ông là Sakya-muni (Trung quốc dịch là Thích Ca Mâu Ni - nhà hiền triết xứ Sakya).
   

Thứ Hai, 20 tháng 8, 2012

Thơ Đá cuội - Bình minh

Đêm chầm chậm bước
Ánh sáng khẽ khàng
Mặt trời thức giấc
Bình minh!

Chủ Nhật, 19 tháng 8, 2012

Thơ Đá cuội - Sét

Nước tuôn xối xả
Chớp rạch ngang trời
Tiếng trời thét lớn
Đoàng!

Thứ Sáu, 10 tháng 8, 2012

Thơ Đá cuội - Xe máy

Ấn đề máy nổ
Xình xịch ì ì
Kéo ga xe chạy
Vù!

Chủ Nhật, 5 tháng 8, 2012

Thơ Đá cuội - Lưới

 Thơ Đá cuội -  Lưới
                Bình Minh

Lưới chéo lòng sông
Cồng cồng dậm gõ
Cá chạy vòng vo
Dính!

Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2012

Thơ Đá cuội - Câu


Thơ Đá Cuội – Câu
                Bình Minh

Mồi ngon thả xuống
Phao giật cần rung
Bất ngờ cần giật
Đạch!

Thứ Ba, 24 tháng 7, 2012

Thơ Đá cuội - Gió

          Gió
             Bình Minh

Một luồng gió thổi
Mấy chiếc lá khô
Nghiêng nghiêng chao đảo
Xào!

Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012

Tiểu thuyết Tuổi Thơ - Kỳ 6


Tiểu thuyết Tuổi Thơ – Bình Minh ( Bùi Văn Thạch)



Kỳ 6:  Trường Béo


          Nó là một thằng bạn, một thằng bạn thân theo đúng nghĩa của sự gắn bó quê hương. Tôi và nó học với nhau hồi cấp một rồi lên cấp hai và cấp ba cũng học chung lớp chung trường. Nó có thân hình mập mạp, béo tròn nên bạn bè trong lớp tôi đặt cho nó cái biệt danh là “Trường béo”.

Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2012

Thơ Đá Cuội - Mưa

Nắng oi và nồng
Gió bỗng nổi lên
Mây đen kéo đến
Rào

     Bình Minh

Thứ Năm, 19 tháng 7, 2012

Thơ Đá Cuội - Sóng

Xa, xanh phẳng lặng
Nối tiếp nhấp nhô
Vút cao sóng đổ
Ầm!

            Bình Minh

Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2012

Tuổi thơ con


            Tuổi thơ con  
                       Bình Minh  

Tuổi thơ con bồng bềnh  trôi êm ả
Theo cánh diều bay vút tận trời cao
mỗi trưa hè trộn hồn vào ánh nắng
Nheo mắt cười, ôi trời đẹp thế sao???


Ơi tuổi thơ! nhớ lắm những buổi chiều
Đuổi chú còng trốn vào trong cát biển
Nhặt vỏ ốc chứa đầy điều kì diệu
Nhắm mắt lại nghe sóng vỗ đại dương


Tuổi thơ con chạy theo những triền đê
Xanh mướt cỏ trải một màu hy vọng
Mỗi sớm mai sương vẫn còn lắng đọng
Giữ bước ai kia cố gắng đi về


Tuổi thơ con cùng mây trắng trôi bay
Như dòng đời đang cuộn trào đi mãi
Con ước gì con là cơn gió ngược
Bay ngược chiều níu lại những ngày qua


Tuổi thơ con với biết bao kỷ niệm
Bao nhớ thương với nước mắt, nụ cười
Để hôm nay con vào đời tươi mới
Lại nhớ về nơi yêu dấu ngày xưa


Nghiêng lòng mình về kí ức tuổi thơ...


Chủ Nhật, 8 tháng 7, 2012

Ban mai


            Ban mai        

                   Tác giả:  Bình Minh            

Làn gió lạ luồn vào khe cửa nhỏ
gió đem vào hương sắc của mùa thu
vương chút ẩm làn sương tan mỏng mỏng
đượm chút yên bình của sớm ban mai

Khẽ se lạnh quyện vào hương hoa sữa
Hồn vút cao theo mây biếc trời trong
xào xạc là xoay xoay trên sân vắng
mặt hồ buồn khẽ gợn sóng lăn tăn

Liễu nghiêng đầu soi gương hong khô tóc
bằng lăng nhìn nàng liễu  đứng làm duyên
khẽ nhoẻn miệng chào  ban mai màu tím
hoa sữa bước vào thế giới của hương say

Đôi bướm trắng chập chờn bay bay mãi
chân trời xa và rộng đến ngát xanh
Bình minh sớm se se cơn gió nhẹ
Chào một ngày sẽ ấm ấp bao la!
                                   Hà Nội - 15/10/2010

Thứ Bảy, 7 tháng 7, 2012

Tiểu thuyết Tuổi Thơ - kỳ 5

Tiểu thuyết Tuổi Thơ -  kỳ 5
Tác giả: Bình Minh (Bùi Văn Thạch)


CON TRÂU XÁM

            Nó là một con trâu lông và da màu xám bạc rất đẹp, rất hiền, kéo cầy rất khỏe vì thế mà gia đình tôi đã giữ và nuôi nó trong khoảng thời gian lâu nhất trong số những con trâu đã nuôi. Tôi còn nhớ bố tôi thường hay nói ví: con trâu là đầu cơ nghiệp – nhà mình không nuôi trâu thì lấy gì mà ăn vậy nên con phải chăm nó cẩn thận không để nó đói! Thuở nhỏ tôi cứ nửa buổi đến trường nửa buổi cưỡi lưng trâu mặc cho nó thong thả gặm cỏ. Tôi chỉ cần nhìn hai bên hông trâu căng tròn là biết ngay nó đã ăn no và có thể dắt về nhà! Con trâu xám bạc gắn kết gần như suốt quãng đời mục đồng của tôi! Bất kể một vị lái trâu nào khi nhìn thấy con trâu xám nhà tôi cũng phải thốt lên khen ngợi bởi xem bốn khoáy theo đúng kiểu trung tiền neo hậu cân đối đẹp như tranh vẽ không thể chê vào đâu được! Đó là tướng trâu khôn! Mà quả đúng như thế, mỗi lần có người ngắm nghía con trâu rồi tấm tắc bàn tán khen ngợi, tôi lại góp vui bằng hàng loạt kì tích “thương chủ” của nó chẳng khác gì giống khuyển mã trung thành!

Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2012

Tiểu thuyết: Tuổi Thơ - Kỳ 4



Tiểu thuyết: Tuổi Thơ
Tác giả: Bình minh (Bùi Văn Thạch)

Kỳ 4: Con Míc

          Giống như rất nhiều nhà khác ở thôn quê Việt Nam, Chó luôn là con vật thân thiết với gia đình tôi. Cứ chuẩn bị bán con này thì lại nuôi con khác, vì vậy chẳng lúc nào nhà tôi lại không có chó cả. Con chó vừa là con vật nuôi để trông coi nhà cửa, vừa là con vật nuôi để đem lại chút thu nhập nho nhỏ cho gia đình. Cho đến bây giờ tôi không thể nhớ được nhà mình đã nuôi bao nhiêu con chó nhưng cho đến tận bây giờ có một điều tôi không hiểu tại sao ấy là khu đất nhà tôi chỉ thích hợp cho những con chó vàng. Cũng có mấy lần nhà tôi nuôi con chó đen hoặc trắng nhưng chẳng được bao lâu thì nó tự nhiên lăn ra chết hoặc biến mất đi đâu không bao giờ trở về. Có lẽ cũng vì thế mà tôi luôn luôn có cảm giác rất thân thiện khi gặp bất kể chú chó vàng nào dù quen hay không quen.

Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2012

Tiểu thuyết Tuổi Thơ - Kỳ 3


Tiểu thuyết Tuổi Thơ

Tác giả: Bình Minh ( Bùi Văn Thạch)

Kỳ 3: Lạc


Đó là vào năm tôi lên 4 tuổi, cái tuổi mà với những đứa trẻ thời hiện đại bây giờ thì chúng đã biết rất nhiều thứ, và biết rất nhiều nơi rồi nhưng với thời gian khoảng những năm cuối của thập kỷ chín mươi – thời kỳ mà hình ảnh lũy tre làng vẫn còn in đậm trong tâm thức người Việt thì những đứa trẻ tuổi đó vẫn chủ yếu quanh quẩn trong xóm làng mình mà thôi.
Một buổi sáng mùa hè, khi tôi đang nghịch ở sau nhà thì bố tôi gọi tôi rồi bảo:
-          Con vào mặc quần áo rồi đi chơi với bố!
-          Đi đâu thế bố?
-          Đi ra nhà bác Lễ giúp bác ấy lợp mái nhà con à
Bác Lễ là bạn than của bố tôi, nhà bác ấy và nhà tôi cùng trong một xã nhưng bác ấy ở  làng ngoài còn nhà tôi ở làng trong cách nhau một cánh đồng khá rộng. Nếu như thời bây giờ thì bọn trẻ con bốn tuổi nó có thể đi ra đó chơi rồi về nhà là bình thường, nhưng với tôi thời đó chẳng được đi đâu ngoài làng mình nên được đi đến đó tôi cảm tưởng thật là xa. Nhanh như cắt tôi vào trong nhà thay bộ quần áo mới, lấy chiếc mũ cói mẹ tôi mới mua rồi  leo lên ngồi sau xe để bố tôi đèo đi. Chiếc xe đạp Thống Nhất thời đó cũng là một phương tiện rất có giá trị với người dân quê tôi. Nhà nào sang giàu hơn thì mua hẳn xe Phượng Hoàng mà thời đó ai ai cũng bảo xe đó nhập khẩu mãi từ bên nước Đức về. còn với những chiếc xe máy Simson, và sau đó vài năm là chiếc DD thì chỉ những người đi làm nước ngoài về mới có thể mua.

Chủ Nhật, 17 tháng 6, 2012

Tiểu thuyết Tuổi Thơ - Kỳ 2


                              
                    Tiểu thuyết Tuổi Thơ
                             Tác giả: Bình Minh (Bùi Văn Thạch)


                                                   Kỳ 2


         Mỗi chiều về, làng tôi lại êm ả, những cơn gió khẽ thì thào lay nhẹ những nhành lúa non xanh tạo nên những làn sóng xanh cứ trùng trùng xa dàn, xa dần đến tận cuối cánh đồng. Phía trên, những đàn cò gấp gáp, hối hả gọi nhau bay về rừng trú ẩn. Mà kể cũng lạ, những con vật nhỏ nhoi ấy cũng thật tuyệt vời, bay về rừng nhưng không bao giờ chúng bay riêng lẻ mà luôn luôn tíu tít theo đàn gọi nhau cũng xếp hình và cùng bay đi. Đàn thì hình chữ V khổng lồ trên bầu trời, có đần lại xếp thành hình chử M, có đàn lại dàn hang ngang, có đàn chim lại dàn hang dọc…. Thật khó tưởng tượng nổi diễn cảnh đó nếu bạn không phải là người của làng quê này nhưng với người dân quê nó vẫn bình thường diễn ra như không có gì đặc sắc để rồi đến khi đi xa quê hương họ mới cẩm thấy “Thèm”, thấy nhớ cái dư vị ngọt ngào, cái vị đắng chát một thời xa vắng. Thật khó có thể diễn tả được cái mùi hương lúa mới, mùi rơm rạ lẫn trong mùi mồ hôi công sức của 5 tháng trời lao động vất vả :”bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, cái mùi nồng của đất, của những nhánh mạ mới nhú… Tất cả sẽ còn đọng lại mãi trong tâm khảm mỗi người dân.

Tiểu thuyết: Tuổi Thơ - Kỳ 1


Tiểu thuyết: TUỔI THƠ  

                Tác giả: Bình Minh (Bùi Văn Thạch)


           Kỳ 1 : Chuyện lạ quê tôi


Làng tôi là một làng đồng bằng ven biển, ngày ngày sóng vỗ rì rào, cánh đồng lúa trải dài xanh ngát mênh mông. Các cụ kể lại rằng, từ lúc xa xưa cách đây chừng mấy thế kỉ trước, Khu làng thân yêu này cũng chỉ là nền của biển cả mênh mông, dần dà do quá trình bồi tụ, lấn biển của cha ông mà đã hình thành những ngôi làng. Và cứ thế, dần dần the thời gian, làng tôi cũng được tạo dựng và kiến thiết theo thời gian. Những câu chuyện oai hùng, những dư âm địa chất vẫn còn đâu đây ở làng tôi không bao giờ nằm ngoài những sự tưởng tượng, quan tâm của bà con. Và cũng đã có rất nhiều người ngao ngán khoan giếng mà không dùng được vì dưới nền của nó rất mặn. Tôi còn nhớ rất rõ năm 1998 một làng ở gần làng tôi có đoàn người đi làm công việc nạo vét lòng sông ở gần cửa biển (Cửa Hà Lạn), thế rồi một điều kì diệu, bất ngờ đã diễn ra ấy là Một bộ xương cá Voi dài , rất dài nằm dọc theo lòng sông hiện ra. Nó dài hơn chục mét, chiều ngang tầm 5m. Dân làng khai quật lên rồi đem tặng viện Hải Dương Học. Điều ngạc nhiên là biển quê tôi không bao giờ có cá voi, không biết do biển không tốt hay cá voi không hợp với nguồn nước, thức ăn ở đây, thế mà hôm nay, lại suốt hiện một xác cá Voi khổng lồ gần như to nhất Việt Nam. Vậy là tại sao? Chẳng ai giải thích được, nhưng tôi biết rất nhiều người dân đã đem hương ra cắm bên bờ sông trước khi họ ra khơi đánh bắt với hy vọng Cá Ông che chở, gọi cá con về để họ đánh bắt được nhiều. Tôi mơ màng không tin, nhưng không tin sao được!

BUỒN VÌ MỘT NỖI KHÔNG CẦN LÝ DO

BUỒN VÌ MỘT NỖI KHÔNG CẦN LÝ DO
                                  Bình minh (Bùi Văn Thạch)

       Trời cao cao, gió cao cao
con diều theo gió bay vào không trung
      bâng khuâng em đứng trông người
bên thềm cửa sổ bên đời mộng mơ

    Hôm qua gió cũng bay về
đem theo hơi ấm tràn trề tình yêu
     Hôm nay gió lại lliêu xiêu
Mang theo nỗi nhớ nỗi buồn điêu linh

Chủ Nhật, 10 tháng 6, 2012

Chú ngựa Xích Thố - Một điểm Philogic trong Tam Quốc

Có một điểm rất phi logic trong câu chuyện về chú ngựa Xích Thố lừng danh này mà những người đọc tinh ý có thể phát hiện ra. Khi Quan Vũ nhận được ngựa Xích Thố từ chỗ Tào Tháo thì Xích Thố đã là một con ngựa trưởng thành. Đó cũng là lúc Quan Vũ ở độ tuổi thanh niên. Sau này, khi Quan Vũ bại trận ở Mạch Thành và bị quân Đông Ngô giết, Quan Vũ vẫn cưỡi con ngựa Xích Thố. Khi đó, Quan Vũ tuổi đã ngoài 50. Đây rõ ràng là một sai lầm chết người của La Quán Trung.

Thân thế thật sự của Điêu Thuyền trong Tam Quốc?

 Điêu Thuyền vốn không phải là tên gọi mà là một chức danh để gọi những người hầu phục vụ mũ áo cho quan lại dưới triều nhà Hán. Điều này, đương nhiên La Quán Trung không thể không biết.

Vậy rốt cuộc Điêu Thuyền là ai và vì sao tác giả “Tam Quốc diễn nghĩa” lại cố tình che giấu thân phận cũng như số phận của mỹ nhân lừng danh sử sách này?


Nói về “Tam Quốc diễn nghĩa”, dường như chẳng mấy người Việt Nam cảm thấy xa lạ. Bộ tiểu thuyết của tác giả họ La có thể nói là đã tạo ra một sức sống và sự lan tỏa cực kỳ mãnh liệt, vượt ra ngoài lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên, với những người tò mò và thích suy luận, sau khi đọc bộ tiểu thuyết, ắt sẽ không khỏi cảm thấy cuốn tiểu thuyết “ba phần thực, bảy phần hư” này có nhiều tình tiết rất “khả nghi”, thậm chí phi logic và không thể lý giải được.

Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012

Tây Du Ký - Cùng giải mã một vài vấn đề biểu tượng của yêu quái

Xem phim Tây Du Ký chắc chắn có nhiều người thắc mắc tại sao Ngộ Không dễ dàng thắng được lửa lò Bát Quái của Thái Thượng Lão Quân mà lại bị thiêu bởi lửa tam muội của đứa trẻ Hồng Hài Nhi. Bánh xe lửa tam muội của Hồng Hai Nhi tượng trưng cho lửa tham và lửa sân, thế lực mạnh của ma giáo. Ngộ Không là vô ngã, tức không còn tham nhưng trí vẫn có lòng sân vì thế bị chế ngự bởi lửa tam muội. Cũng như vậy, quạt Ba Tiêu của La Sát nương nương là hình ảnh tượng trưng cho bát phong ở đời: khen, chê, mừng, danh vọng, giận, lợi dưỡng, được mất. Ngộ Không phải mượn Định Phong đơn của Bồ Tát Văn Thù mới chế ngự được, tức là phải định tâm với khắc chế được bát phong của đời.

Với 7 yêu nhền nhện, có bao giờ bạn tự hỏi tại sao Ngọc Thố, Bò Cạp Tinh,… và nhiều yêu quái khác đều muốn lấy Đường Tăng làm chồng còn 7 tiên nương xinh đẹp này chỉ muốn ăn thịt Đường Tăng? 7 yêu nhền nhện lần đầu xuất hiện khi đang tắm trong suối Trạc Cấu, tức suối rửa sạch cáu bẩn của dục ái, vì vậy 7 tiên nương này tuy xinh đẹp nhưng không còn dục vọng.

Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2012

CỬU ÂM CHÂN KINH - Bộ bí-kíp có thật trong lịch sử võ thuật Trung Hoa


Hư và thực cứ bàng bạc, biến ảo đa đoan với các nhân vật, sự kiện, bí kíp võ công… trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung như chính những chiêu thức võ công mà ông hư cấu.

Cuối tháng 4-2010, tại núi Oa Hình, xã Hứa Phường, huyện Sùng Nhân – Giang Tây, các nhà khảo cổ Trung Quốc đã phát hiện một ngôi mộ cổ. Căn cứ vào việc phục dựng bia mộ đã hư hại cùng các cổ vật thu nhặt được, các nhà khảo cổ xác định chủ nhân ngôi mộ này chính là Hoàng Thường – nhà chính trị, triết học, văn học nổi tiếng đời Tống.
Thông tin này lập tức gây sốt dư luận ở Trung Quốc. Điều mà hầu hết mọi người đều quan tâm là Hoàng Thường có đúng là tác giả Cửu âm chân kinh, bí kíp tuyệt học võ công mà Kim Dung đã viết hay không?

Sự thật lịch sử phía sau huyền thoại CÁI BANG

Lịch sử Cái Bang có thể nói là từ rất lâu đời, danh xưng “Thiên Hạ Đệ Nhất Bang” không phải tự nhiên mà có. Nhờ tinh thần quật cường và nhân số đông đảo, phái này luôn chiếm một vị trí đáng kể trong võ lâm Trung Nguyên. Danh tiếng trên Giang hồ của Cái Bang lừng lẫy hàng trăm năm, nhân tài Ngọa hổ tàng long, thời nào cũng có. Trong bốn bể Đông Tây Nam Bắc, nơi nào có ăn xin, nơi đó có Cái Bang. Những đệ tử trong bang thương yêu giúp đỡ nhau, chia sẻ mọi thứ, tạo nên một khối thống nhất luôn theo phò Chính nghĩa.
Cái Bang là bang hội tập trung những tên ăn mày hành khất có rất đông hội viên, thường khoảng trên dưới vài chục vạn người thanh thế cực kì to lớn. Các đệ tử Cái Bang thường được chia theo đẳng cấp, mới gia nhập là cấp 1, đệ tử 1 túi rồi từ từ theo công lao và thời gian mà thăng cấp từ từ lên 2 , 3 , 4 … Cao nhất là các trưởng lão 8, 9 túi rồi trên nữa là Phó Bang Chủ và Bang Chủ. Bang Chủ Cái Bang rất được quần hào trọng vọng vì là người nắm trong tay sinh mệnh của hàng vạn đệ tử. Người có thể chi phối hầu hết các lực lượng võ lâm chính phái cùng với phái Thiếu Lâm là lãnh tụ võ lâm Trung Nguyên. Một bên được ví với Thái Sơn, còn 1 bên là Bắc Đẩu của võ lâm.
Trong lịch sử Cái Bang đã chịu nhiều khó khăn nhưng không quên mục tiêu của mình là tôn vinh chữ “nghĩa” và giúp người khó khăn. Vì vậy, Cái Bang trở thành môn phái gần gũi với dân nghèo và trở thành trung tâm của Bách Đạo dựa trên nền tảng sức mạnh của dân chúng.Tất cả mười ba thành đều là lãnh địa của Cái Bang. Dù cho đi đến đâu thì cũng có thể thấy ăn mày và trong số những ăn mày đó thì phần lớn là người của Cái Bang. Phần lớn đệ tử của Cái Bang đã làm cho Cái Bang trở thành môn phái mạnh nhất và Cái Bang được coi là “tai mắt của thiên hạ”. Trong vô số những môn phái của giang hồ thì Cái Bang là môn phái có thế mạnh về tin tức nhất.Tất cả thu nhập của Cái Bang đều dựa vào việc xin ăn. Nhưng việc xin ăn này không phải là do bất hạnh hay vì miếng ăn đơn thuần. Mục đích xin ăn của Cái Bang là kết bạn và cuối cùng là ra tay nghĩa hiệp.

Các đệ tử của Cái Bang có quyền học võ của bất kì môn phái nào, hay có thể được Bang Chủ truyền dạy võ công. Nhưng Cái Bang cũng có 2 môn Thần Công trấn phái là Hàng Long Thập Bát Chưởng cùng Đả Cẩu Bổng Pháp. Hai môn võ này được truyền tụng đời đời, các Bang Chủ chấp chưởng đại quyền đều phải biết 2 môn công phu này. Hàng Long chưởng có thể không biết nhưng nhất định phải thông thạo 36 chiêu Đả Cẩu Bổng. Suốt các đời Bang chủ luôn phải lãnh đạo Bang chúng hành hiệp trượng nghĩa, cứu khổ phò nguy đối phó ngoại xâm nội phản chống lại các thế lực ác độc của võ lâm. Vì vậy Cái Bang luôn có thanh thế rất lớn trên giang hồ và luôn nhận được sự kính trọng mến phục của đồng đạo võ lâm. Trong đó nổi tiếng nhất là Hồng Thất Công, bang chủ đời 18 của Cái Bang, người đã đạt đến cảnh giới 2 loại võ công trên.

Lịch sử Cái bang:
Theo lời kể của Hồng Thất Công, thì Cái Bang có lịch sử cũng khá lâu đời. Khoảng vào thời Đường sau khi Thiếu Lâm khai môn lập phái, vị Tổ Sư mở bang sáng lập bang phái cùng với 18 chiêu Hàng Long chưởng. Còn Đả cẩu Bổng pháp thì chưa được hoàn thiện , truyền qua từng đời thì tới đời thứ 3 vị Bang chủ này thêm vào thành 36 chiêu Đả Cẩu Bổng hoàn chỉnh …Truyền qua nhiều đời, thời cực thịnh của Cái Bang có thể là từ lúc Tiêu Phong tiếp nhiệm Cái Bang. Ông là vị Bang Chủ được đánh giá là tài ba nhất của Cái Bang với bao nhiêu công trạng to lớn lập được cho võ lâm Trung Nguyên và triều đình Đại Tống.
Lực lượng Cái Bang lúc đó khoảng hơn 60 vạn người, tiếc thay anh hùng thường bị trời ghen ghét. Nên Tiêu Phong đoản mạng, lập tức Cái Bang như rắn mất đầu chẳng còn oai phong như khi xưa. Mãi tới khi Hồng Thất Công nắm quyền mới có thể khôi phục phần nào uy danh lừng lẫy của Bang phái năm xưa. Sau Hồng Thất Công là Hoàng Dung, vị Bang chủ nữ đầu tiên của Cái Bang từ khi mở bang (người thứ hai là Sử Hồng Thạch), cũng đã lập nhiều đại công tạo dựng lại thanh thế cho Cái Bang trên giang hồ. Rồi Lỗ Hữu Cước , Gia Luật Tề thay nhau tiếp nhiệm … Qua nhiều năm , Cái Bang càng lúc càng suy vi, cho đến thời của Sử Hoả Long thì Hàng Long Thập Bát Chưởng thất truyền còn Cái Bang chỉ là 1 bang hội hạng 2 trên giang hồ …
Qua nhiều năm, cơ chế của Cái Bang có đôi chút thay đổi. Thời Bắc Tống , ngoài Tứ Đại Trưởng Lão Cái Bang còn có 2 vị trưởng lão là Truyền Công , Chấp Pháp , qua thời Nam Tống , các vị trưởng lão lại chia ra 2 phe : Áo Dơ , Áo Sạch và cũng chỉ còn 4 vị, đến thời Nguyên Minh chỉ còn 2 vị lãnh đạo cao nhất là Trưởng Bát Long Đầu và Trưởng Bảng Long Đầu cùng tên Chấp Pháp …
Các Bang Chủ Cái Bang qua các thời kì :
- Uông Kiếm Thông : Bang chủ đời thứ 16
- Tiêu Phong : Bang chủ đời thứ 17
- Hồng Thất Công : Bang chủ đời thứ 18
- Hoàng Dung : Bang chủ nữ duy nhất , đời thứ 19
- Lỗ Hữu Cước : Bang chủ đời thứ 20
- Gia Luật Tề : Bang chủ đời thứ 21
Sau đó còn 2 vị là Sử Hoả Long , Giải Phong ( trong Tiếu Ngạo Giang Hồ ) : không rõ đời thứ bao nhiêu …
Hệ thống võ công:
Ưu điểm của võ công Cái Bang là có tính thực dụng và thực tiễn cao. Không duy trì, giữ gìn lễ nghi và lề thói như những môn phái khác của Bách Đạo. Võ công của Cái Bang chuyên đánh lạc hướng đối phương, nên thoạt nhìn nó có vẻ lén lút hèn hạ. Thế nhưng, ẩn bên trong nó là triết lý của những bậc thầy không màng tới thế sự. Võ công Cái Bang không ảo diệu thâm thúy. Trong các loại võ công, võ công Cái Bang chỉ có mấy ưu điểm được bổ sung là mang tính lịch sử và truyền thống (Đả Cẩu Bổng Pháp hay Giáng Long Thập Bát Chưởng…). Do đó, hầu hết những đệ tử đều bị nguy hiểm vì chạy theo lợi ích lớn mà từ bỏ thân thể mình.
1.Cái Bang Chưởng Pháp :
Cao thủ Cái bang càng đánh càng dồi dào sức lực, khi sinh mạnh lâm nguy võ công được phát huy tới mức tột đỉnh.Đệ tử Cái bang thiện chiến giáp lá cà, đồng thời né tránh đòn đánh gần rất lanh lẹ. Những kẻ ra đòn nặng với đệ tử Cái bang đều phải chuốc lấy phần thiệt. Họ càng ra nhiều đòn liên hoàn, công lực càng tăng lên gấp bội và có thể kết liễu kẻ địch từ xa. Đến khi nhận ra ý đồ của họ, kẻ địch tiến thoái lưỡng nan, chạy trốn không được mà chống cự cũng không nổi.
Võ công tuyệt học của Cái Bang Chưởng pháp là Hàng Long Thập Bát Chưởng, còn gọi là Giáng Long Thập Bát Chưởng, môn võ công trấn phái của Cái Bang. Giáng Long Thập Bát Chưởng được xem là 1 trong 3 chiêu thức lợi hại nhất võ lâm, cùng sánh ngang với tuyệt kỹ võ học của Thiếu Lâm và Võ Đang. Sau đây là tên 15 chiêu của Giáng Long Thập Bát Chưởng, 3 chiêu cuối của Giáng Long Thập Bát Chưởng tương truyền đã không còn hiện hữu giang hồ sau khi Hồng Thất Công rời Cái Bang mai danh ẩn tích, các bang chủ về sau của Cái Bang không ai có thể luyện được 3 chiêu này :
1 . Kháng Long Hữu Hối
2 . Phi Long Tại Thiên
3 . Quần Long Vô Thủ
4 . Tiềm Long Hốt Dụng
5 . Bàn Long Thực Nhật
6 . Song Long Xuất Hải
7 . Đột Như Kì Lai
8 . Lợi Thiệp Đại Xuyên
9 . Kiến Long Tại Điền
10. Hoặc Dược Tại Uyên
11. Lý Sương Băng Chí
12 . Hồng Tàm Ư Lục
13 . Chấn Kinh Bách Lý
14 . Thần Long Bãi Vĩ
15 . Long Chiến Vũ Dã
Bộ chưởng pháp này là võ công chí cương của thiên hạ, bao đời Bang Chủ Cái Bang nhờ nó mà thành danh giang hồ uy lực tuỳ theo người sử dụng.
Hoàng Dung: Nữ bang chủ duy nhất của Cái Bang
Trích dẫn từ lời tác giả Kim Dung:
Những cao thủ về môn chưởng pháp này có thể kể là Tiêu Phong, Hồng Thất Công, Quách Tĩnh. Tiếc thay, từ sau thời Anh Hùng Xạ Điêu, vật đổi sao dời Hàng Long Chưởng cũng theo đó mà thất truyền cùng với sự suy vi của Cái Bang. Đến thời Gia Luật Tề thì chắc không học nổi toàn bộ, Quách đại hiệp đành phải gửi gắm hi vọng vào hậu thế trong thanh Ỷ Thiên kiếm… Nhớ lại sau này bang chủ Cái Bang Sử Hoả Long chỉ tập thành có 12 chiêu mà tiếc cho Tiêu Phong 1 thân anh hùng lại vùi thây nơi hiểm địa …
2.Cái Bang Bổng Pháp
Đả Cẩu Bổng Pháp: Công nhận là tổ sư khai môn lập phái của Cái Bang thật lạ, một mặt sử dụng tên 1 con linh vật, Rồng để đặt tên cho chưởng pháp (Hàng Long thập bát chưởng) mặt khác sử dụng tên một con vật tầm thường, Cẩu để gọi môn Bổng Pháp chí bảo trấn bang…
Như ta đã biết, Đả Cẩu Bổng Pháp gắn liền với cây Đả Cẩu Bổng danh lừng thiên hạ. Tương truyền tất cả các Bang Chủ Cái Bang khi tiếp nhiệm trọng trách đều được Bang Chủ tiền nhiệm dạy cho môn võ công thần diệu này. Nhưng có lẽ ít ai biết được hình dáng thực sự của cây Đả cẩu Bổng. Bởi nó dài 3 thước lẻ 7 phân, hình thẳng và làm bằng trúc xanh. Còn Đả Cẩu Bổng của Bang Chủ thì làm bằng Lục ngọ , có màu xanh như trúc vậy. Một cây gậy tầm thường như vậy nhưng lại có quyền lực tối cao, có thể sai khiến hàng vạn vạn Bang Chúng dưới quyền.
Tiếp theo là bàn về Đả Cẩu Bổng Pháp, lộ Bổng Pháp này gồm 36 chiêu chia theo 8 chữ khẩu quyết : buộc, đập, trói đâm, khều, dẫn, khoá, xoay. Tuỳ tình hình địch thủ và gia số võ công mà sử dụng 1 trong 8 chữ khẩu quyết này là có thể khắc địch chế thắng. Điểm lợi hại của Bổng Pháp này là người võ công kém hơn khi đụng đối thủ mạnh cũng có thể chiến thắng nổi, chiêu thức Bổng Pháp biến ảo tinh diệu tuyệt kì. Có thể điểm sơ sơ qua vài chiêu:
1. Ngao Khẩu Đoạt Trượng (dùng cướp gậy)
2. Áp Thiên Cẩu Bối (khẩu quyết chữ Khoá)
3. Bổng Đả Song Khuyển (chữ Đập)
4. Bát Thảo Tầm Xà (chữ Đâm)
5. Lục Phản Cẩu Điện (chữ Đâm )
6. Bát Cẩu Triều Thiên ( chữ Khoá )
Người có thể sử dụng thuần thục Đã Cẩu Bổng Pháp lại là nữ bang chủ duy nhất của Cái Bang, đồng thời cũng là bang chủ đời 19 của Cái Bang : Hoàng Dung.
Nói đến Cái Bang là ta nói nghĩ ngay đến “Thiên Hạ Đệ Nhất Bang”, nghĩ đến các nhân vật Hồng Thất Công, Kiều Phong (Tiêu Phong), Quách Tĩnh v.v…. Ngoài danh hiệu “Thiên Hạ Đệ Nhất Bang” ra, ta còn dễ dàng liên tưởng đến Giáng Long Thật Bát Chưởng, Đã cẩu bổng pháp. Đệ tử Cái Bang phân bố khắp nơi, đông tay nam bắc đâu có ăn xin, là nơi đó có phân đà của Cái Bang.

Kết cấu bang phái:
Cấp cao nhất, thống lĩnh bang phái: Bang chủ.
Bang chủ lấy bốn biển làm nhà, ngao du đây đó, không cố định một nơi. Nguyên nhân 1 phần là do bang phái trải rộng khắp thiên hạ, nên bang chủ không thể ngồi một nơi mà quản lý bang hội, nên phải nay nơi này, mai nơi khác giám sát bang chúng. Tuy nhiên, vào mỗi đầu tháng phải đến Hồ Động Đình để họp cùng gặp các trưởng lão trong bang, xử lý những công việc quan trọng. Bang chủ Cái Bang võ công xuất chúng, lại ngày đây mai đó, nên hành hiệp trượng nghĩa khắp nơi. Rất nhiều người trong chốn giang hồ mang ơn bang chủ Cái Bang, vì thế rất được đồng đạo chốn giang hồ kính trọng.
Dưới bang chủ là trưởng Lão. Ví dụ như truyền công trưởng lão (dạy võ công), chấp pháp trưởng lão, chưởng côn trưởng lão v.v…. Nhiệm vụ là giúp đỡ bang chủ xử lý công việc trong bang. Đảm đương chức vụ trưởng lão, phải là đệ tử 9 túi.
Kế đến, đó là đệ tử 8 túi. Giữ cương vị hộ pháp trong bang. Thường gồm có 5 người, xưng là Ngũ Đại Hộ Pháp, gồm : Đông Đàng Hộ Pháp, Tây Đàng Hộ Pháp, Nam Đàng Hộ Pháp, Bắc Đàng Hộ Pháp, Trung Đàng Hộ Pháp. Nhiệm vụ của họ là phân công quản lý các phân đà ở 5 khu vực khác nhau của Trung Nguyên.
Tiếp theo đó là đệ tử 7 túi, thường giữ chức vụ trưởng phân đà ở 1 thành thị nào đó, kế đến là dệ tự sáu túi, năm túi, bốn túi, ba túi, hai túi, một túi, và không có túi nào.


                                                                                                    Nguồn: internet

 

Thứ Bảy, 2 tháng 6, 2012

Giải mã những giọt nước mắt Gia Cát Lượng - một góc nhìn trái chiều

Gia Cát Lượng đầu tiên là khóc Chu Du. Năm 36 tuổi, vị đô đốc thủy quân của Đông Ngô Chu Du đã bất hạnh tiêu vong, Gia Cát Lượng mang theo Triệu Tử Long và một số người khác nữa đến phúng viếng. Chỉ thấy Khổng Minh tới trước linh sàng Chu Du, bày lễ vật, tự rót rượu, đổ xuống đất rồi khóc lớn, vừa khóc vừa thuật lại Chu Du sinh thời anh hùng, văn tài võ lược, rộng lượng chí cao như thế nào, rồi giúp Tôn Quyền cát cứ Giang Đông, xây dựng sự nghiệp ra sao. Ông ta cực lực ca ngợi tấm lòng trung nghĩa, khí chất anh hùng của Chu Du. Đứng trước quan tài của Chu Du, ông đau đớn nói: “Hỡi ôi Công Cẩn, sinh tử vĩnh biệt!”. “Hồn phách có linh, xin chứng giám cho tấm lòng của tôi: từ đây trong thiên hạ, sẽ không tìm thấy đâu kẻ tri âm! Than ôi đau đớn thay!”. Ông ta nước mắt như suối, bi thương khóc lóc không dừng, thực là cảm động lòng người. Những người có mặt trong buổi hôm đó không ai là không bị nước mắt của ông ta làm cho cảm động, các tướng lĩnh không có ai không bị tình cảm của ông ta cảm hóa.
Gia Cát Lượng giống như đám tang mẹ, khóc lóc kêu gào. Các tướng lĩnh Đông Ngô đều bị tung hỏa mù. Họ nghĩ không ra rằng vì sao Chu Du chết. Không phải là người trước mắt họ, nói lời mà không giữ, chua ngoa cay nghiệt thì Chu Du đâu đã chết nhanh như vậy. Giờ đến đám tang khóc viếng, phân minh là không ai ăn hiếp Giang Đông cả, có ý muốn hạ thấp Chu Du, trình hiện trước thế nhân một giả tượng rằng: không phải là tôi, Gia Cát Lượng, thế này thế nọ mà là ông, Chu Du, nhỏ nhen, việc ông tức khí mà chết hoàn toàn không liên quan tới tôi. Ông xem ông chết mà tôi vẫn còn tới khóc viếng ông, ông phải nói tôi thật rộng lượng mới đúng! Đối với một người đã chết mà ông ta vẫn không từ bỏ, lòng dạ Gia Cát Lượng quả thật còn hơn lang sói.

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Vị vua hay khóc - Lưu Bị

Đọc Tam Quốc chúng ta thấy đối lập với cái gian hùng của Tào Tháo là cái “kiêu hùng” của Lưu Bị, vị vua họ Lưu cũng có cách xử lý mà không người nào làm được, ông ta dùng nước mắt để tranh thiên hạ. Lưu Bị thích khóc đến nổi tiếng.

Lưu Bị dưới sự trợ giúp của Từ Nguyên Trực, đóng quân Tân Dã, chiêu binh mãi mã, tích trữ lương thảo, khí tượng ngày một thịnh. Nhưng Tào Tháo đã bắt chước bút tích của Từ Mẫu đưa cho Nguyên Trực, khiến cho ông ta phải rời bỏ Lưu Bị. Lưu Bị khóc rằng: “Nguyên Trực đi rồi, ta sẽ không biết làm thế nào?”, rồi ngưng nước mắt mà ngóng theo. Từ Thứ vì điều này mà tâm tư nhiễu loạn, nước mắt lưng tròng, khi sang phía Tào Tháo từ đầu chí cuối không đưa ra một kế sách nào.

Lưu Bị ba lần đến lều cỏ, gặp phải lời từ chối khéo của Khổng Minh, khóc rằng: “Tiên sinh không xuất sơn, thiên hạ sẽ sống như thế nào?”. Lưu Bị nói đi nói lại, càng động đến tâm sự sâu kín, tâm tư trăm mối, lúc đó “nước mắt thấm ra tay áo, làm ướt hết cả vạt áo”.

Khi Lỗ Túc Đông Ngô đòi Kinh Châu, Lưu Bị lại khóc, dày vò những thủ hạ của Lỗ Túc không biết xử trí thế nào, cuối cùng không hoàn thành được nhiệm vụ.

Khi tin Quan Vũ bị sát hại truyền tới, Lưu Bị “thét lên một tiếng lớn, hôn mê ngã vật xuống đất”, lệ thấm ướt vạt áo, ba ngày không ăn. Biểu hiện huynh đệ tình thâm.

Lưu Bị từ đầu chí cuối đều dùng nước mắt để cảm động văn thần võ tướng, khóc để giành được một địa bàn lập nghiệp rồi cũng dùng khóc để có được vị trí vua đất Thục.


Nguồn: Internet

Một góc nhìn khác về Khổng Minh trong Tam Quốc

Tác giả của phần trích trong hai chương sách bình về Gia Cát Lượng được trích dưới đây là Mai Triêu Vinh, sinh năm 1970 ở Vũ Hán, Hồ Bắc, gốc là người Nam Xương, Giang Tây. Ông hiện là Tổng Giám đốc Nhà xuất bản Đại học Vũ Hán, chi nhánh Bắc Kinh. Vốn nổi tiếng bởi những cuốn sách gây sốc và bán chạy vào loại nhất. Mai Triêu Vinh đã viết rất nhiều tác phẩm và hầu hết đều gây được sự chú ý của người đọc.
Các tác phẩm của ông bao gồm: Tiến hóa luận: câu chuyện mạnh được yếu thua; 12 quy luật suy vong của các triều đại Trung Quốc; Lược sử nhân loại: Chúng tôi có 300 vạn năm; Siêu đế quốc: giải mã những vương triều cường thịnh Trung Quốc; Nhà đại cải cách Ung Chính: thực lục về việc phản đối lợi ích của tập đoàn; Bình luận về 7 đại gian hùng trong lịch sử Trung Quốc;… Hầu hết những tác phẩm của ông đều mang tính chất phản đề, “nói ngược”. Và cũng vì những cuốn sách này, người ta đã coi Mai Triêu Vinh là nhà bình luận lịch sử xã hội sắc sảo.

Chủ Nhật, 22 tháng 4, 2012

Tình mẹ



Khi trên tay mẹ có cái đùi gà, mẹ sẽ nói:
“Con ăn đi, mẹ không đói ^^”

Khi trước mặt mẹ có đủ sơn hào hải vị, mẹ sẽ nói:
“Con ăn đi, mẹ không thích ăn ^^”

Khi trời oi bức, trên tay bạn chỉ có một ly nước, mẹ sẽ nói :
“Mẹ không khát, con uống đi ^^”

Khi đêm đã vào khuya mẹ vẫn còn ngồi khâu áo, bạn đến hỏi han, người sẽ nói:
“Khuya rồi, con đi ngủ đi, mẹ không mệt đâu ^^”

Khi bạn đã thành đạt, mua quà về biếu mẹ, mẹ sẽ nói :
“Thôi mua chi cho lắm, mẹ không thích đâu”

Chủ Nhật, 15 tháng 4, 2012

Thủy Hử là bộ tiểu thuyết bệnh hoạn?

Thuỷ Hử - một trong bốn bộ tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng nhất Trung Quốc bị đánh giá là cuốn tiểu thuyết bệnh hoạn? Nghĩa khí “tứ hải giai huynh đệ” của 108 vị anh hùng hảo hán Lương Sơn Bạc bị coi là nghĩa khí anh em kiểu lưu manh?



Cuốn tiểu thuyết được dựng thành không biết bao nhiêu phim, truyện tranh, trò chơi điện tử... giờ đây đang trở thành đề tài nóng hổi được tranh luận tích cực trên các diễn đàn văn học nghệ thuật và cuộc sống.
Thuỷ Hử tô đẹp hành vi lưu manh?
Cuối tháng 6/2007 vừa qua, trên tạp chí Tia Sáng có đăng tải bài trả lời phỏng vấn tạp chí Khoa học và Văn hóa Trung Quốc của Giáo sư Bill Jenner ở Đại học Quốc gia Australia về bộ tiểu thuyết kinh điển Thuỷ Hử.