CHƯƠNG II
Ý NGHĨA THÁNH LỄ CÔNG GIÁO VIỆT NAM
Trong
đời sống Ki-tô hữu thì cầu nguyện là một hành động thường xuyên cần làm và được
giáo hội khuyến khích thực hiên. Còn việc tham dự thánh lễ là một điều bắt buộc
mỗi tín hữu phải hiệp thông ít nhất một tuần một lần vào ngày chủ nhật và các
ngày lễ trọng khác theo lịch. Tìm hiểu thánh lễ của người công giáo tại Việt Nam cũng mang
những nét chung cơ bản của các thánh lễ công giáo trên thế giới. Tuy nhiên đôi
chỗ cũng có những nét riêng để phù hợp với khuân khổ và hoàn cảnh văn hóa xã hội
của Việt Nam.
Dưới đây tôi xin được luận giải ý nghĩa chi tiết từng phần, từng nghi thức của
thánh lễ công giáo tại Việt Nam theo nguyên tắc tôn trọng và phản ánh đúng, đầy
đủ tiến trình từ đầu đến cuối của một buổi lễ. Giá trị đích thực của việc dâng thánh lễ với người Công giáo chủ yếu nằm ở
hai vấn đề chính yếu sau:
1.
Việc thể
hiện niềm tin tôn giáo - suy ngẫm lời chúa để củng cố thêm niềm tin tôn giáo;
2.
Tưởng niệm
lại những hy lễ mà Giêsu đã truyền dậy (còn gọi là phép thánh thể) qua đó biến
những bánh và rượu thành vật tế lễ mà loài người dâng lên thiên chúa để xin ơn
hiệp thông và ơn tha tội ngõ hầu được an bình trong chúa.
Thánh lễ công giáo bao gồm bốn phần
cơ bản là:
1. Nhập lễ (Từ đầu đến lời nguyện nhập lễ)
2. Phụng vụ Lời Chúa (Từ khi đọc bài đọc 1 đến hết lời nguyện giáo dân)
3. Phụng
vụ Thánh Thể (Từ dâng lễ vật cho đến hết phần rước mình thánh chúa)
4. Kết
lễ (Phần còn lại)
PHẦN I: NHẬP LỄ
Nghi thức nhập lễ chỉ là phần khởi đầu
của thánh lễ để dẫn nhập vào phần quan trọng sau đó là phụng vụ lời chúa. Cũng
chính vì thế mà tùy những trường hợp dâng lễ cụ thể mà linh mục có thể cắt bớt
một vài khâu ở nghi thức đầu lễ để thánh lễ diễn ra nhanh, gọn phù hợp với hoàn
cảnh. Sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu trình tự từng nghi thức trong phần nhập lễ
trong một thánh lễ hoàn chỉnh:
1. Hát Nhập lễ:
Trong bất kỳ một giáo họ, giáo xứ
nào cũng đều có một hội những người hát lễ gọi là ca đoàn. Việc thực hiện các
bài hát ca tụng được ca đoàn phụ trách và cộng đoàn cùng với ca đoàn hòa một nhịp
tạo nên một “cộng đoàn ca” trong thánh lễ. Có những nơi thì trước thánh lễ ca
đoàn đã chuẩn bị sẵn tất cả các bài hát trong thánh lễ in ra giấy để ộng đoàn học
trước và hát cùng ca đoàn trong thánh lễ. Tuy nhiên có nhiều nơi thì ca đoàn phụ
trách hát (những bài hát theo khuân khổ quy định trong sách phụng vụ thánh lễ,
hoặc những bài hát thánh ca có ý nghĩa tương tự như chủ đề thánh lễ) và khi ca
đoàn hát thì cộng đoàn ai thuộc sẽ hát theo, ai không thuộc thì nghiêm trang lắng
nghe và hiệp thông sốt sắng. Trong khi ca đoàn hát thì Linh mục (chủ tế) cùng
đoàn lễ nghi sẽ bước ra trước bàn thờ để làm thủ tục tiến lên bàn thờ chuẩn bị
dâng thánh lễ.
Thông thường các bài hát đầu lễ sẽ
thể hiện được chủ đề của ngày lễ đó là lễ mừng hay lễ phụng vụ, chủ đề của tin
mừng hôm đó hướng tới vấn đề gì…. Tuy nhiên mục đích cơ bản nhất của bài hát đầu
lễ là tạo nên một không khí hiệp nhất cho cộng đoàn khi tất cả mọi người cùng đứng
trước bàn thờ ca vang lời ca đầu lễ, cũng là bài hát để lấp đầy khoảng thời
gian trống trong lúc đoàn lễ nghi từ phòng chuẩn bị tiến ra bàn thờ chuẩn bị bắt
đầu thánh lễ.
Sau khi chủ tế đã tiến lên bàn thờ,
chủ tế sẽ tiến lại hôn bàn thờ, đoàn lễ
nghĩ (những người giúp việc thánh lễ) sẽ tiến về vị trí của mình thì ca đoàn và
cộng đoàn sẽ ngưng hát ca khúc nhập lễ. Nghi thức hôn bàn thờ (có những thánh lễ
quan trọng còn có cả xông hương bàn thờ) nhằm thể hiện sự tôn vinh thiên chúa
mà cụ thể ở đây chính là đức Giê-su vì chính ngài là trung tâm của thánh lễ,
chính ngài ngự nơi bàn thờ và cũng chính ngài là bàn thờ và là vật tế lễ của
bàn thờ để con người dâng lên chúa cha. Nếu có xông hương cũng nhằm tạo thêm phần
long trọng, thêm sự ấm cúng trong nghi thức.
2. Làm dấu thánh giá và lời đầu lễ
Việc làm dấu thánh giá như một khởi
đầu bắt buộc với mọi giáo dân khi cầu nguyện hoặc dâng thánh lễ. Đó là câu nhân
danh thiên chúa thể hiện lên mầu nhiệm một chúa ba ngôi: “Nhân danh thiên chúa
cha và chúa con và chúa thánh thần”. Việc làm dấu được đánh trên trán tới trái
tim rồi hai vai và kết thúc bằng Amen tạo nên một nét vẽ hình thánh giá trên cơ
thể mỗi giáo dân cũng nhắc nhở giáo dân nhớ tới cây thập giá mà chính Giê-su đã
chịu chết để cứu nhân loại. Và không chỉ trong thánh lễ mà ở bất kì đâu khi làm
dấu thì đó cũng là hành động đặc thù nhất để
người công giáo khẳng định cho mọi người biết họ chính là người mang niềm
tin công giáo và tự hào là con cái thiên chúa.
Câu kết Amen chính là ngôn ngữ của
người Do-thái. Đạo công giáo lấy nguyên văn câu kết đó để thể hiện đúng, đầy đủ
bản chất và ý nghĩa của một lời nguyện kết mà con người dâng lên thiên chúa. Có
thể hiểu đại ý của từ Amen dịch từ tiếng Do-thái sang tiếng Việt có nghĩa là
“vâng”, “đúng như vậy”, “ước như vậy” hoặc “tin như vậy”. Nói chung tùy ngữ cảnh
của lời nguyện mà chúng ta có thể hiểu theo một chiều hướng nào đó dễ nghe và dễ
hiểu nhưng tựu chung lại thì đó là câu kết khẳng định niềm tin vào những gì mà
người công giáo đã tuyên xưng trước đó, hoặc xin trước đó.